Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2009

Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản

Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Tàn sát , khủng bố, đàn áp
( Le livre noir du communisme s. dir Stéphane Courtois et al. )
- Lược dịch Fossion René và Trần hữu Sơn - Trần minh Tâm đánh máy.

Đây là công trình của Ông René Fossion và Ông Trần hữu Sơn, những người quốc gia đã hy sinh thời giờ và công ăn việc làm của mình để đóng góp phần nào cho cuộc tranh đấu chung , khi dịch cuốn sách " Le Livre noir du communisme " , Xb Robert Laffont 1997, của các học giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin tố cáo tội ác của Công Sản thế giới .

Ngoài ra Ông Trần minh Tâm đã tận tình đánh máy trên 1000 trang.

Ông René Fossion, Ông Trần hữu Sơn, và ông Trần minh Tâm không sống về nghề làm báo, hay viết văn. Ngày thì làm công hai bữa, tối về nhà cặm cụi làm việc dưới ánh đèn cô đơn.

Nay thì bản dịch đã hoàn tất nên cho phổ biến trên Internet để mọi người thấy rõ "bộ mặt thật của CS". Mong rằng quý độc giả rộng lượng bỏ qua nếu có điều gì không đúng lắm vì " traduire c'est trahir" ( nói nôm na: dịch một bản văn đôi khi còn phản nghĩa điều mà tác giả muốn nói ).

Mong quý độc giả cứ tự tiện phổ biến cho bất cứ ai cần đến. Đó là ý nguyện của chúng tôi. Mong lắm thay.

Mục lục

Phần 1. Tàn sát , khủng bố , đàn áp

Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
- Nghịch biện và sự hiểu lầm cuộc cách mạng tháng mười
- Lực lượng võ trang của chuyên chính vô-sản
- Khủng-bố đỏ
- Cuộc chiến bẩn thỉu
- Các diễn biến từ Tambov đến nạn đói lớn
- Hưu-chiến và khúc quanh lớn
- Giải tán quy chế điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể
- Nạn đói lớn
- Các phần tử xa lạ với xã-hội và các chu-kỳ đàn-áp
- Cuộc khủng-bố vĩ đại trong những năm 1936-1938
- Đế quốc ngục tù
- Mặt trái của cuộc chiến thắng
- Cao-điểm của các khủng-hoảng trong các hợp tác xã nông nghiệp
- Cuộc âm mưu cuối cùng
- Giã từ chủ-nghĩa Staline
- Kết-luận phần Nhà nước chống lại nhân dân
Phần 2. Cách mạng thế-giới. Nội chiến và khủng bố
Chương 17
Chương 18
Chương 19 - Komintern được phát động và các hành động của cơ-quan này
- Bóng đen của cơ-quan NKVD trên lãnh-thổ Espagne
- Cộng-sản và khủng bố


Lời nói đầu
Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nổi đau khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đã chứng minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đã làm giàu trong các cuộc buôn bán người nô lệ da đen. Nước Pháp với chính sách thuộc địa đã ghi lại biết bao nhiêu ghê tởm trong lịch sử.

Nhưng nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đã vượt hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đã có quá nhiều thảm họa do con người gây ra : Hai trận thế chiến, Chế độ Đức quốc xã, các thảm trạng xãy ra ở Armenia, Biafra, Rwanda và một vài khu vực khác. Đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xã tiêu diệt dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie..Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của cộng sản đã gây ra .

Chủ nghĩa Cộng Sản , một hiện tượng lớn của thế kỷ 20 , bắt đầu từ năm 1914 và kết thúc vào năm 1991 taị Mạc Tư Khoa. Chủ nghĩa Cộng Sản ra đời trước chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hôị, goị tắc là Quốc Xã. Chủ nghĩa Cộng Sản sống lâu hơn Quốc Xã và nó lan rộng ra khắp năm Châu.

Chúng ta cần phân bịệt giữa Chủ nghĩa và hành động.

Về phương diện lý thuyết chính trị, chủ nghĩa Cộng Sản đã có từ nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đã đề cập đến '' Chế độ cộng hòa'' trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xã hôị đó chỉ có sự khôn ngoan, công lý và lẽ phải ngự trị mà thôi.

Một nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đã vạch ra một quốc gia lý tưởng nhưng đã bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí những đóng góp quý giá cho các nền dân chủ về sau.
Còn chủ nghĩa Cộng Sản được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng trên. Đây là chủ nghĩa Cộng Sản hành động. Nó đã diễn ra ở một thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rõ qua các cuộc khủng bố , đàn áp, kiểm soát biên giới, kiểm soát các phương tiện truyền thông , bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.
Những ký ức về khủng bố đã làm cho người ta không quên được chủ nghĩa Cộng sản . Người ta không quên tội ác Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim Nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, tội ác Hồ Chí Minh của Việt Nam, Fidel Castro của Cu Ba v.v.. .. và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là : Maurice Thorez, Jacques Duclos, Georges Marchais.

Nhưng tội ác của Cộng Sản đã không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên bình diện bình thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với cộng sản về tội ác mà chủ nghĩa này đã gây ra. Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp vì các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lãnh tụ mà nước Pháp đã đón tiếp họ một cách nồng hậu.

Các tội ác mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này không dựa trên các tài liệu '' pháp lý'' của chế độ Cộng sản. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn bản '' bất thành văn ''. Nói một cách khác, các tài liệu này không được viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lý của nhân loại.

Chúng ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội ác mà Cộng sản đã coi đó như là cứu cánh của toàn thể hệ thống lãnh đạo.

Chúng tôi sẽ nói lên những gì ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ?

Có vô số tôị ác :

Trước hết là tôị ác về văn hóa của các quốc gia Cộng sản thống trị và văn hóa của nhân loại.

Staline đã ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo taị Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đã ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là thành phố Bucaresti. Pol Pot đã cho tháo gỡ từng viên gạch của thành phố Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc cách mạng văn hoá, Hồng Vệ Binh của Mao đã phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô giá của nhân dân Trung Hoa.

Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của một số người được coi là linh hồn của các vụ tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Xử bắn, xử treo cổ, nhận chìm trong nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quãng đường dài hàng trăm cây số, Lao động khổ sai, kiệt sức,...

Chúng tôi thống kê danh sách con số người đã bị Cộng Sản giết chết. Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số người nạn nhân đã bị Cộng Sản giết chết :
Trung Quốc
Liên Xô
Bắc Hàn
Miên
Phi châu
A phú Hãn
Đông Âu
Việt Nam
Trung Mỹ : 65 triệu;
: 20 triệu;
: 2 triệu;
: 2 triệu;
: 1,7 triệu;
: 1,5 triệu;
: 1 triệu;
: 1 triệu;
:150 ngàn;
:3 triệu;

Các phong trào Cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản đang nắm chính quyền: vài chục ngàn.
Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu.

Nếu tính theo tỉ lệ thời gian thì Pol Pot đứng hàng đầu gây tội ác. Trong vòng 3 năm, Pol Pot đã tiêu diệt một phần tư dân số dân tộc Miên. Mao đã gây tội ác trầm trọng trong cuộc cách mạng văn hóa . Bàn tay của Lenine và Staline đẩm máu vì cái lô-gích tư tưởng của mình.

Nếu chỉ suy tư về tội ác thì không thể nào đánh giá được phẩm chất chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp lý.

Taị tòa án Numberg vào năm 1945, các lãnh tụ Đức Quốc Xã đã bị kết án về tội diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều 6 của tòa án quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tôị: chống lại hòa bình, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại.

Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này thì Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền Cộng sản đã gây ra tội ác đều phải bị kết án.

Theo điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa soạn và theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại hòa bình. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật ký hai hiệp ước với Đức Quốc Xã vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 năm 1938 để rảnh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này đã khởi đàu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra Staline còn vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1950. Staline cũng đã xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.

Mạc Tư Khoa đã chỉ đạo các đảng Cộng sản đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá hoại các một số quốc gia khác. Tại A Phú Hãn, Mạc Tư Khoa đã vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp đảng Cộng sản nước này để cướp chính quyền vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đã rút ra từ năm 1989.

Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều khoản này đã được ghi rõ trong bản '' giao ước quốc tế '' ra đời năm 1907 tại thành phố La Hague của nước Hòa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành động ám sát, hành hạ, ngược đãi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lý do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự,..

Staline đã cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại thành phố Katyn khi cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra còn các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hãm hiếp phụ nữ Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.

Điều luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau : Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đãi vì lý do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo, ..

Trong bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lý Francois de Menton nhấn mạnh tính chất ý thức hệ của các tội ác này như sau :

'' Tôi cho rằng tất cả các tội ác đã gây ra cho một khối đông đảo quần chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên một chủ nghĩa đã chối bỏ tất cả giá trị luân lý của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng là nguồn gốc của chủ nghĩa Quốc Xã. Đó là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Đây không phải là một tại nạn rủi ro , không phải là một sự việc tình cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành..''

Các bản tuyên cáo của tòa án Numberg nhấn mạnh đến một điểm chính của điều khỏan ''chống lại nhân lọai ' : Lạm dụng quyền lực của nhà nước đề phục vụ cho một chính sách và thi hành các tội ác.

Căn cứ vào điều luật này, thì tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong tay Cộng sản đều phải bị kết án.

Cộng sản nhân danh nhà nước, nhân danh một ý thức hệ để tiêu diệt hàng chục triệu người vô tội, chỉ vì họ là quý tộc, là thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ ,..

Khái niệm về tôị ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng dân Do Thái do Đức quốc xã gây nên, ngày 9 tháng 12 năm 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau :.giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với một nhóm dân, một sắc dân hay một tôn giáo điều bị ghép vào tôị ' chống lại nhân loại'.

Bộ hình luật mới của Pháp định nghĩa từ '' diệt chủng'' rộng rãi hơn . Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt một phần lớn hay toàn thể một khối người, một sắc tộc, một giai cấp trong xã hội hay một tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu một người bị giết vì lý do đã được sinh ra trong một giai cấp xã hội, một sắc dân hay theo một tôn giáo,.. đều bị coi như tội ác chống nhân loại.

Trong quyển sách '' Cuộc khủng bố đỏ ở Nga''xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, sử gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại một mẫu chuyện của một người chỉ huy đầu tiên của cơ quan tình báo chính trị Xô Viết, có tên là Latziv. Ngày 1 tháng 11 năm 1919 ông ta ra lịnh cho một tên công an dưới quyền là tìm bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là : anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, trình độ học vấn, nghề nghiệp,..

Chính Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ chình trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người gìa, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc , nhà cửa bị phá hủy.
Trong những năm 1930 , 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẻ và toàn diện hơn. Staline xử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh ' tập thể hóa '. Tuy rằng những ngưới đưa đi lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết giá lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng còn được bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.

Trong vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập thể hóa đã có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đã diễn ra hai hình thức diệt chủng : diệt chủng giai cấp và diệt chủng sắc dân.

Quốc Xã Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các phòng hơi ngạt và lò thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi Cộng sản xử dụng 'vũ khí đói' để tiêu diệt các sắc dân. Cộng sản tìm đủ mọi cách để kiểm soát lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. Tình trạng này đã dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước Cộng sản.

Bản tổng kết đàu tiên toàn bộ các tội ác được ghi như sau :

Trong những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát vì chống đói chính sách tập thể hoá của Cộng sản.

Nạn đói năm 1922 đã làm cho 5 triệu người chết.
Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930.
Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng trăm ngàn ngườì thuộc các sắc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm 1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979 dân ở các thành phố Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do Cộng sản Trung quốc chủ trương từ năm 1950.

Cho tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao Trạch Đông , Kim Nhật Thành và Pol Pot.

Về phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra một vấn đề : Sử gia có quyền xử dụng các từ thuộc lãnh vực pháp lý như '' tội ác chống lại nhân lọai' hay '' tôị diệt chủng '' trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh hay không ? Mặc khác , các khái niệm này cũng không nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch sử.

Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tôị ác diệt chủng không phải là tôị ác độc quyền của Đức quốc xã. Hãy nhìn những gì đã xãy ra gần đây ở các nước Bosnie , ở Rwanda , chúng ta sẽ bằng lòng điểm này.

Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ tìm hiểu sự việc mà không phán đoán.

Nhưng đứng trước thảm họa của nhân loại , sự phá vỡ phẩm giá của con người, các sử gia có thể bỏ qua một số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử gia Jean Pierre Azema đã kết án chế độ Đức quốc xã có '' tôị ác chống lại nhân loại''. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết án tên Touvier, một người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức đuốc xã.

Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tôị ác do Cộng sản đã gây ra.
Ngoài ra còn phải đặc trách nhiệm của các chế độ Cộng sản đang nắm quyền hành . Họ là những kẽ tòng phạm. Năm 1987, bộ hình luật của Gia Nã Đại tu chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tôị ác chống lại nhân loại, gồm có : Mưu toan, tòng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện tôị ác chống lại nhân loại, âm mưu và tòng phạm sau khi đã xảy ra sự việc.

Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người Cộng sản trên thế giới đã hô hào cổ vỏ cho hai tên gây tôị ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào phong trào Cộng sản quốc tế. Trong những năm 1950,1960,1970 hàng triệu người sùng bái Mao Trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hoá. Và gần đây còn có nhiều người ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả : chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật không dễ gì biết những gì Cộng sản làm. Bí mật là phương châm họat động của Cộng sản. Nhưng có nhiều người ngày nay đã biết sự thật nhưng họ vẫn im lặng.

Năm 1969 ông Robert Conquest, một trong những sử gia đầu tiên nghiên cứu về tôị ác của Cộng sản, đã viết :'' Một việc rất rõ là có nhiều người chấp nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở thành phố Mạc tư Khoa trong các năm 1936,1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự đồng lõa cho các vụ thanh trừng toàn diện tiếp theo sau. Nhiều người ở bên ngoài đã thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những người này dù chỉ có lời bình phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là tòng phạm trong các vụ án chính trị.

Joseph Berger, một cán bộ trong tổ chức Quốc Tế Cộng Sản, ngươì đã từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai , đã kể lại một lá thư của một nữ tù nhân đảng viên Cộng sản được trả tự do sau khi lưu đày với nội dung như sau :'' Các người Cộng sản thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những người Cộng sản khác trên khắp thế giới. Đây là một vết nhơ mà chúng tôi đã vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tôị ác này không còn tái diễn. Điều gì đã diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất cả lý trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội Cộng sản ? Thật ra chúng tôi, kể ca những nhân viện thân cận của Staline đều đã vi phạm các tôị ác. Chúng tôi đã tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho việc chiến thắng của Chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để củng cố quyền uy cho đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như cho các đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lý..''

Những người Cộng sản Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bởi cơ quan NKVD - Bộ nội vụ- của Liên Xô nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi Liên Xô và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đã uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của Liên Xô.

Trong quyển sách nói về cách mạng của Nga, nhà văn Martin Malia đã vén cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lý của một '' tư tưởng lớn'' và đã dẫn đến một kết luận : Đó là một tội ác lớn.

Bà Annie Kriegel, một nhà phân tích lớn về chủ nghĩa Cộng sản đã cho thấy hai mặt của chủ nghĩa : Mặt tươi sáng và mặt tối.

Ý thức hệ Cộng sản dự phóng một xã hội tốt đẹp. Điều này đã mê hoặc nhiều người . Nhưng xã hội Cộng sản tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài vì sợ chịu trách nhiệm và tự do đã chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài Cộng sản thì quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong luận đề '' Sự sợ hãi của ý thức tự do '' ông Fromm tuyên bố : tình nguyện làm đầy tớ cho chủ nghĩa Cộng sản.

Những người tình nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ tòng phạm. Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là tòng phạm.

Phân tích hiện tượng Cộng sản khi đang nắm chính cquyền là một việc làm khó khăn.

Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là một hiện tượng vừa mang tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp , vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của tính độc tài. Một vài so sánh sau đây sẽ giải thích rõ vấn đề.

Chúng ta bằng lòng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người Bônsêvích chiến đãu chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng một khi quyền hành nằm trong tay những người BônsêVích thì sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước tòa án xét xử, đúng luật lệ của một toà án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tôị nhân, có nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đôí vơí Cộng sản, các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách , viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đình. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác ,.. Chính Lenine và Staline cũng đã từng ở tù và bị lưu đày dưới thơì Nga Hoàng. Cả hai đã có những kinh nghiệm này.

Trong tác phẩm '' Kỹ niệm ngôi nhà của người chết'', nhà văn Dostoievski đã làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine, Staline thì chẳng đáng vào đâu.

Từ năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nhìều cuộc rối lọan và bị đàn áp. Đã có 6360 người bị kết án tử hình. Trong số này có 3922 người bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đàu tiên lên nắm chính quyền, người Bônsêvích đã xử tử nhiều hơn so vơí con số này.

Vào những năm 1920 đến năm 1940, Cộng sản lên tiếng phản đối các cuộc khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem những gì xảy ra ở Ý. Chế độ Phát xít Ý có ngược đãi các nhà chính trị đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đã bắt vài trăm đói thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đảo. Trên thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những gì mà thế giới đã kết án nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.

Trong kỳ thế chiến thứ hai, Đức quốc xã đã ra tay đàn áp các thành phần chống đối họ như các người Cộng sản, nhóm xã hội ,nhóm vô chính phủ và một số nghiệp đòan. Đức quốc xã công khai đàn áp và bắt giam những người này . Từ năm 1933 đến 1939 Đức quốc xã đã kết án và xử bắn 20.000 người. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết vì lý do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuý tóc vàng, da trắng; những người bịnh tâm thần, tật nguyền hay già yếu,..

Hitler đã ra lịnh giết chết những ngườigià ,người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đã có 70.000 người chết vì hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến phản đối, chương trình dùng hơi ngạt mới ngưng họat động. Sau này rút kinh nghiệm đã dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba , đó là giống dân Do Thái.

Thoạt đầu có vài trăm người Do thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào Liên sô, quân Đức đã giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh Sô Viết và 1,1 triệu dân đã bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu người còn sống sót lại trong các trại tập trung.

Tòa án Numberg đã kết án những tội phạm và đã công bố những tội ác mà họ đã gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đã làm cho lương tâm nhân loại xúc động.

Ở đây chúng tôi không muốn đưa ra một danh sách so sánh về con số kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những gì Cộng sản đã làm. Nhưng sự kiện tội ác của Cộng sản đã quá rõ ràng. Chế độ Cộng sản đã giết chết hàng trăm triệu người so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xã. Với bản đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945 , Đức quốc xã bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ Cộng sản lại được duy trì cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lý quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay , Cộng sản vẫn còn ngự trị trên một vài quốc gia với một số tín đồ. Và mặc dù có một vài nước Cộng sản nhìn nhận tội ác của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ gì với tội ác này cả.

Các phương pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống hóa, đã được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những gì đã xảy ra trong thời Đức quốc xã. Có một số tội ác đã xảy ra trước thời Hitler.

Roudolf Hoess là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz . Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của Uỷ ban trung ương về an ninh một số chi tiết về các trại tập trung của Sô Viết.[ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đã ra lịnh cho lưu đày các chính trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xã cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu còn nhấn mạnh Xô Viết tiêu diệt toàn bộ một số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.

Với mức độ và kỹ thuật gây tội ác cho một số quần chúng đông đảo mà những người Cộng sản đã khai trương áp dụng, và sau đó Đức quốc xã đã làm theo. Dưới cái nhìn của chúng tôi, người ta có thể minh chứng một chân lý về sự liên hệ trực tiếp giữa chế độ Cộng sản và sự ra đời của chế độ Đức quốc xã.

Vào các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, một danh xưng mới của cơ quan tình báo chính trị Xô Viết, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải tìm cách bắt đi lưu đày một tỉ lệ '' thành phần thù địch ''nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh bại quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đã xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique. Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đã được tái diễn tại các trại tập trung của Đức quốc xã. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay vì cung cấp cho chiến trường, ông ta đã dùng hàng ngàn nhân viên của cơ quan tình báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong vòng vài ngày.

Đối chiếu những gì đã xảy ra dưới chế độ Đức quốc xã và dưới chế độ Cộng sản , chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. Vassili Grossman là người đầu tiên đã nêu ra tôị ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ ông đã bị lính Đức quốc xã giết chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông cũng là một trong những người trưng bày tội ác của Đức quốc xã đã tiêu diệt người Do Thái cư ngụ trân lãnh thổ của Sô Viết.

Trong tập truyện ngắn '' Rồi tất cả cũng đi qua - Tout passe '', ông đã đưa một nhân chứng của vụ chết vì đói ở vùng Urakine. Ông viết : '' Các văn sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những người ăn bám , những ký sinh trùng. Họ là những kẻ đã đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ em.'' . Staline cũng còn công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những người mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho còn cho biết muốn giết họ thì hãy coi thành phần phú nông không phải là người cũng giống như Đức quốc xã coi dân Do Thái cũng không phải là người.

Đức quốc Xã dự trù cho một xã hội tương lai của một sắc dân thuần chủng. Cộng sản chuẩn bị cho ngày mai một xã hội của những người vô sản. Hai cách cải tạo xã hội tuy có khác nhau về cách xử dụng tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là một chủ thuyết tổng quan thì thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu , thì quả thực một nửa nhân loại không còn xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang tính chất của chủ nghĩa Quốc xã. Nếu có khác chăng là khác ở chổ, Cộng sản phân chia ra nhiều giai cấp trong khi Quốc xã phân chia ra giống dân và lãnh thổ.

Tội ác của Lenine, Staline và hình ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đã đặt ra một câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại : Phải xếp vào tội nào đối với những người đã tiêu diệt các thành phần bị ghép vào tội thù địch vì lý do chính trị, tư tưởng, không phải ở phạm vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng xã hội . Phải chăng cần đặt ra một tội danh mới ? người Anh đã dùng danh từ Politicide , bao gồm ý nghĩa cuả Chính trị - politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp Khắc gọi là Tội ác Cộng sản.

Người ta biết gì về những tội ác Cộng sản gây ra ? Người ta muốn biết cái gì, loại nào ? Và tại làm sao phải chờ mãi đến cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm túc?

Việc nghiên cứu tội ác của Quốc xã đã có từ lâu và đã đi khá xa so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông Âu đã gia tăng các cuộc nghiên cứu này.

Một số khác biệt đã được phát hiện. Năm 1945 , lực lượng Đồng minh thắng trận đã chính thức lên án tội ác diệt chũng những người đầu não của Đức quốc xã. Nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản , hàng trăm cuống phim trình chiếu. Như '' Đêm và sương mù - Nuit et Brouillard''; '' Sự chọn lựa của Sophine- Le choix de Sophine''; ''Danh sách của Schindler- La liste de Schindler''. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đã sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.

Những tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn ác ,và dã man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung thần Cộng sản. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết đến. Còn các tên Lenine, Staline, Hồ chí minh, Mao trạch Đông, thì lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có một viên chức nhà nước Pháp , Le Loto đã dùng các hình ảnh này vào trong chương trình quảng cáo. Có ai bao giờ thấy các hình ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh họat tương tợ hay không ?

Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xã Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lãnh tụ của quốc gia liên hệ đã làm sáng tỏ giá trị của nền dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống soát trong chế độ Cộng sản ? Tại sao có sự êm lặng chính trị một cách ngượng ngùng như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quý vị trong Hàn Lâm về thảm họa của Cộng sản từ hơn 80 năm qua đã gây cho hơn 1/ 3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố ' Tội ác'' vào trọng tâm trong công việc nghiên cứu chế độ Cộng sản? Tội ác đối với tập thể đông đảo quần chúng; tội ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân loại.

Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ vì sợ hãi ?

Lý do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển của những người chủ mưu gây tôị ác. Họ muốn xóa bỏ những gì họ đã làm. Họ không muốn ai nhắt đến.

Năm 1956 Kroutchev đọc một bản văn bí mật nhìn nhận tội ác của Cộng sản, tội ác của các nhà lãnh đạo Cộng Sản, những người hiện đang nắm quyền hành cũng đã nhúng tay vào. Theo lời của một hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. Vì muốn che dấu các đồng chí của ông ta nên Kroutchev chỉ nêu lên những người Cộng sản là nạn nhân trong các cuộc khủng bố này. Dĩ nhiên cũng có người Cộng sản là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết thì con số nạn nhân là người Cộng sản thì quá nhỏ. Thay vì kết án, Kroutchev chỉ nói rằng đó là '' Sự lạm dụng dưới thời Staline'' để mong bào chữa cho sự liên tục của chế độ .

Kroutchev cũng trình bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết bản phúc trình mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline . Tên Kaganovitch là một đảng viên thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần một cái nheo mắt của Staline. Ông ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của đảng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là vì ông muốn bảo tồn mạng sống của mình. Ông ta chỉ còn muốn có một điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát toàn diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài; tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ; các cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật về tôị ác của Cộng sản.

Vì không bằng lòng với những gì họ đã làm trong quá khứ, những tội phạm tìm mọi cách chống lại những ai muốn tìm hiểu sự thật.

Sau đệ nhi thế chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tôị ác của Cộng sản. Từ tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, tòa án Ba Lê đã xét vụ án ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp Xô Viết và là tác gỉa quyển '' Tôi chọn tự do -Je choisi la liberte' ''.

Từ tháng 11 năm 1950 đến tháng giêng năm 1951 cũng tại tòa án BaLê, ông Aragon đã kiện ông David Rousset , một nhà trí thức có khuynh hướng Trotski.

Rousset đã từng bị lưu đày trong các trại tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946 ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm '' Vũ trụ tập trung - Univers concentrationaire''. Ngày 12 tháng 11 năm 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở Liên Sô hãy thành lập ủy ban điều tra các trại tập trung khổ sai . Báo chí Cộng sản lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset kịch liệt và chính quyền Xô Viết cho biết là không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro Litteraire số ra ngày 25 tháng 2 năm 1950 cho đăng một bài báo tựa đề : '' Trại tập trung khổ sai của Sô Viết , Cái gì khốn khổ nhất : Địa ngục hay trại Belzebuth ? '' trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân , tường thuật lại những gì bà đã trãi qua trong trại tập trung của Sô Viết và của Quốc Xã Đức.

Những nhà độc tài Sô Viết tìm mọi cách chống lại lương tâm của con người . Họ mở ra một mặt trận rộng lớn với một số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với những người như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại thành phố Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên...

Trước sự đe dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ can đảm để phát biểu và cũng không còn khả năng để hội nhập vào cái xã hội còn đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang. Trong tác phẩm '' Rồi moị việc cũng qua '', tác giả Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đã được chính người Do Thái trên toàn thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ Cộng sản không hề có quyền đòi hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm một lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.

Một khi Cộng sản không còn che dấu được một số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây ra các nạn đói,.., thì chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nhìn nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ tìm cách biện minh hợp lý. Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng thì có các dâm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà thì phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ của Cộng sản. Hình thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù thì mệnh danh là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành những người của chế độ mới. Ở các trại tù Xô Viết, các tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột phải họ các tư tưởng do đảng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về xã hội và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của Cộng sản còn có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đã vi phạm tư tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đã trở thành thiên kiến. Những người Cộng sản nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẻ, khó có ai sánh kịp, cộng thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xão, đôi khi còn dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được một hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm tình viên, lập lại chủ nghĩa Cộng sản. Các người Cộng sản biết xử dụng một cách có hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đã từng tiên bố :'' Tôi tin, dù cho phi lý''.

Nằm trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đã bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào nổi danh của Nga, ông Gorki đã chấp nhận đi viếng các vùng thuộc quần đảo Solovski. Nơi đây là thí điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các bài báo ca tụng chế độ Sô Viết và quần đảo Solovski. Một nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đã viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển '' Xứ Georgie tuyệt vời''. Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đã mở một cuộc tàn sát rùng rợn.

Gần đây, Mario Maccio đã ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng Fidel Castro . Lòng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và sự hư ảo đã bị bạo lực cách mạng thôi miên. Các chế độ độc tài , dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những người này. Chế độ độc tài Cộng sản cũng vậy.

Đứng trước các lời tuyên truyền của Cộng sản, các nước Tây phương có thái độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đã tỏ ra quá ngây thơ đối với chế độ Cộng sản xão quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của Sô Viết hay vì cái vô liêm sĩ của các chính khách? Tại hội nghị Yalta vào năm 1945 đã hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đã buông rơi các nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac Tư khoa, đã bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để đổi lấy sự chấp thuận của lãnh tụ Cộng sản Pháp Moris Thorez về một bảo đảm an ninh xã hội và chính trị trên đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.

Việc làm mù quáng này đã củng cố một cách hợp pháp lòng tin của những người Cộng sản Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng chủ nghĩa xã hội. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt là một thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân cách mạng rất sung sướng vì họ được nhà nước yễm trợ. Một nhà nước ủng hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. Chủ nghĩa Cộng sản tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người và xã hội , một giấc mơ về sự bình đẳng thực sự, một hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, Cộng sản đã phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà chủ nghĩa xã hội đã gây ra.

Dù muốn hay không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do Cộng sản gây ra mỗi lúc một gia tăng. Một phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh : '' Ký ức tang chế của cá nhân ta đã cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác..''.

Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đã gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai còn có thể động lòng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.

Có ba lý do che dấu tội ác của Cộng sản :

1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ý thức cách mạng. Cho tới ngày nay nhiều người vẫn còn sùng bái ý niệm cách mạng của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp xã hội. Hình ảnh Che' Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm cách mạng , sinh hoạt công khai ,lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác của những người làm cách mạng đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của Cộng sản.

2. Lý do thứ hai của hành động che dấu tội ác của Cộng sản là bởi Sô Viết đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đã chiến thắng. Đó là cơ hội để cho những người Cộng sản chính thức đeo mặt nạ của những người ái quốc lương thiện hòng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.

Từ đầu tháng 6 năm 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lãnh thổ Sô Viết, tất cả các đảng viên đảng Cộng sản ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng lên, chiến đãu vỏ trang chống lại Quốc Xã Đức hay Phát xít Ý. Những người Cộng sản cũng đã chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác. Hàng ngàn đảng viên Cộng sản bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động khổ sai hay bị xử bắn. Cộng sản đã thần tựơng hoá những đảng viên bi tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lý tưởng của chúng và còn dùng để chỉ trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, còn có rất nhiều người không phải là Cộng sản, cùng sát cánh với Cộng sản trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle vì cùng chung chống Đức quốc xã với quân của Xô Viết nên họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của Xô Viết đối chọi với Hoa Kỳ.

Việc các người Cộng sản tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả. Những người Cộng sản tự coi mình là tiêu biểu của lực lượng chống Phát Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít này, Cộng sản đã làm câm họng những ai chỉ trích họ.

Francois Furet đã nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xã thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người Cộng sản chiến thắng Đức , đó là điều thiện. Trong tòa án Numberg, Cộng sản ngồi vào ghế biện lý. Chính nhờ vậy , họ đã che lấp các hoạt động xấu xa đối với giá trị dân chủ của các nước Tây phương. Cộng sản đã từng ký hòa ước với Đức quốc xã vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. Nhân dân các quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng Minh Anh , Hoa Kỳ giải phóng thì tỏ ra vô cùng biết ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với nhân dân Xô Viết về những sự mất mát vì chiến tranh. Ngành tuyên truyền của Cộng sản khai thát triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của Cộng sản cũng tìm cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới đâu biết những gì đã xảy ra. Sử gia đã chia các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại : Một là dân chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị Hồng quân chiếm đóng như sau : '' Chiến tranh đã kết thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan. Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng một bóng tối khác. Các hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi đó, tại thủ đô Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng nhân dân Ba lan đã được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..''

3. Lý do thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.

Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đã trở thành một hiện tượng dã man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người . Trước thế chiến, Cộng sản cho rằng họ không hề có hành động ngược đãi dân Do Thái. Và họ biết rất rõ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt tuyên truyền một khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước Cộng sản lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái , với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.

Khúc quanh lớn đã diễn ra vào ngày 24 tháng 2 năm 1956. Đó là ngày chính thức nhìn nhận tội ác của Cộng sản. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ nhất của đảng Cộng sản Liên Xô, ông Nikita Kroutchev khai mạc Đại Hội lần thứ 20 của đảng Cộng sản. Đại hội họp trong phòng kín. Các đại biểu êm lặng và căng thẳng ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ròng rã 30 năm là người hùng của chủ nghĩa Cộng sản thế giới. Bản phúc trình mật từ ngày đó đã là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của chủ nghĩa Cộng sản ngày nay. Và đây là lần thứ nhất một người lãng đạo cao cấp Cộng sản chính thức thừa nhận những người lãnh đạo từ năm 1917 đã gây ra tội ác.

Có nhiều lý do đã thúc đẩy Kroutchev phá vỡ một trong những điều cấm kỵ của Cộng sản. Mục đính chính của Kroutchev là tìm cách quy tội cho một cá nhân để chạy tội cho chính sách dã man của chủ nghĩa Cộng sản. Trong kế hoạch này , ông tấn công và khai trừ các đảng viện tay chân của Staline, những người theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rõ vào mùa hè năm 1957, tất cả các đảng viên thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức. Thí dụ điển hình này chỉ là một chi tiết tầm thường . Trên thực tế còn nhiều điều kinh hòang hơn. Khi ông ta còn ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine , được coi như là lãnh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi ký, ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi. Đại hội kết thúc với những quyết nghị và chương trình thi hành các nghị quyết. Nhưng rồi họ làm được những gì. Ông ta viết :'' Vậy chúng ta phải làm gì cho những người bị xử bắn vô tội; phải làm gì cho những người bị bắt và bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rõ ràng rằng họ là những người công dân lương thiện, họ là những đảng viên trung thành với đảng. Họ đã hy sinh cho chủ nghĩa Cộng sản. Sớm hay muộn gì, những người hiện còn bị giam trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân nghe những gì đã xảy ra. Vì vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường lối lãnh đạo sai lầm của đảng trong những năm đó. Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết gì chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là một thời kỳ đàn áp và độc đoán ở trong đảng. Chúng ta có nhiệm vụ phải trình bày trước đại hội những gì chúng ta biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú tôi . ''

Cũng có một số trường hợp hối hận xảy ra . Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các đảng viên khác để chiếm giữ các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê bình, tự kiểm điểm. Đó chỉ vì sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này ? Đó là Kroutchev. Nhưng rồi cũng chính Kroutchev vào năm 1956 đã ra lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng Hung gia Lợi.

Trong các phiên họp đại hội thứ 22 của đảng Cộng sản, Kroutchev lại một lần nữa cho rằng đảng viên Cộng sản là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài tưởng niệm những người Cộng sản này. Ông đi trở lại con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho Cộng sản.

Vào năm 1962 khi còn tại quyền Tổng bí thư đảng, ông Kroutchev cho xuất bản quyển '' Một ngày của Ivan Denissovitch '' của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 tháng 10 năm 1960 Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết , ngoại trừ thân nhân.

Nhiều người nhìn nhận rằng bản '' phúc trình mật của Kroutchev'' phá vỡ căn bản chính sách của Cộng sản trong thế kỷ thứ 20 .

Theo ông Francois Furet một đảng viên Cộng sản Pháp ly khai năm 1954 cho rằng bản phúc trình mật chỉ là một sự thú nhận quanh co. Bản phúc trình chỉ đề cập đến những người Cộng sản là nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản phúc trình mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lãnh tụ đảng Cộng Sản ở các quốc gia khác không chiụ thừa nhận tội ác như Kroutchev đã làm. Mãi đến năm 1979, đảng Cộng sản Trung Quốc mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao. Họ cho rằng Mao đã có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đã làm sai. Cộng sản Việt Nam chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo '' hành động diệt chủng của Pol Pot ''. Còn Castro thì cho rằng không hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.

Cho đến lúc này, chỉ có những người chống đối Cộng sản , những thành phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của Cộng sản. Kết quả của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của Đức quốc xã, của Cộng sản mới đủ ý chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xã sát nhập vào Đức. Trong chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh và bị ngược đãi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau, gia đình của họ không hề biết được tin tức gì cả. Chính phủ Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.

Tháng hai năm 1956, bản phúc trình mật do Kroutchev đọc trước Đại hội Đảng lần thứ 20 đã làm đảo lộn hàng ngũ Cộng sản. Lời tố cáo không phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Mạc Tư Khoa . Ý niệm Cộng sản bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà còn dao động ở các nước Cộng sản chư hầu. Bởi vì lời tố cáo không phải phát xuất từ một đảng viên bình thường do bất mãn , trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương kiêm Đệ nhất Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu chủ nghĩa Cộng sản còn đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội trường, không một đảng viên đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản phúc trình mật có một giá trị sức mạnh ghê gớm.

Từ đầu năm 1917, đã xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lý. Một nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là '' tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông '' . Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.

Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ mặt thật của những người Bônsêvich. Nhưng phải đợi đến khi người Cộng sản tự thú thì tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng . Nhiều uỷ ban thành hình co nhiệm vụ thu nhập những ký ức của nạn nhân. Như Uỷ Ban Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David Rousset hay Uy ban về sự thật tôị ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của các Ủy Ban bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của Cộng Sản và được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển '' Quần đảo Goulag'' và tác phẩm '' Ảo ảnh chết người'' của Pin Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. Xã hội Tăy Phương vẫn từ chối nhì nhận sự thật đã xảy ra trước mắt họ : Chủ nghĩa Cộng Sản từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả đều đã nhúng tay vào tội ác.

Từ năm 1920 đến năm 1950 vì Cộng Sản bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai cuả các nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục Liên Sô.

Năm 1959 một viên chức cao cấp của cơ quan tình báo Sô Viết KBG rời bỏ hàng ngũ chạy qua Tây Phương tìm tự do. Ông ta trình bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm '''Chế độ trại tập trung của Sô Viết từ 1930-1957'' , tác giả là Paul Barton. Sách do nhà xuất bản Plon phát hành năm 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là một trong những người tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc vào năm 1945 chống lại Đức quốc xã. Năm 1948 ông trốn qua Pháp.

Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm '' Quần đảo ngụ tù Goulag''.

Dư luận có chú ý, nhưng Soljenitsine cũng đã gặp nhiều khó khăn khi tìm cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, một ký giả của tờ báo lớn ở Pháp , tờ Humanite' đã ví Soljenitsine, người đạt giải thưởng Nobel văn chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [ các ông này bị tòa án Pháp kết tôị tử hình vì đã nghinh đón quân Đức như đón những đoàn quân giải phóng ].

Những gì ông Soljenitsine viết , cũng như những gì ông Chalamov kể về Kolyma hay ông Pin Yathay nói về Cao miên đều là những nhận thức quyết định đầu tiên về ý thức.

Gần đây, ông Vladimir Boukovski, một trong những người ly khai trong phong trao ly khai dưới thời Brejnev, đã phản kháng trong tác phẩm '' Xử án tại Mạc Tư Khoa - Jugement a Moscou''. Ông ta kêu gọi thành lập một tòa án quốc tế như tòa án Numberg để xử tội ác của chế độ Cộng Sản. Tác phẩm của ông ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy các tài liệu kêu gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.

Ngày hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật , đã thúc đẩy công việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn khố của Liên bang Xô Viết cũ, của các nước Đông Âu, của Cao Miên đã đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh hoàng. Đã đến lúc phải mở một cuộc điều tra theo phương pháp khoa học về tội ác của Chủ nghĩa Cộng sản mà không sợ bị chi phối vì lý do chính trị. Câu hỏi được đặt ra là phải quy trách tội ác của Cộng Sản ở cấp độ nào cho đúng ?

Để trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.

Điểm thứ nhất, chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử.

Đối với sử gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư tưởng hay cá nhân riêng tư cấm đoán họ nghiên cứu bất kỳ một đề tài nào. Ngày nay không ai có thể ngăn chận sự tìm hiểu, khai quật và phán quyết những gì đã xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị dấu kín trong các văn khố cũng như trong lương tâm của con người.

Vấn đề nghiên cứu chủ nghĩa Cộng Sản không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc một quốc gia, một xã hội hay chỉ trong lãnh vực văn hóa. Bởi với chính sách cực quyền, Cộng sản không những chỉ hoạt động trên phần đất Âu Châu và còn bao trùm khắp cả thế giới.

Nói một cách khác, vấn đề tộị ác Cộng Sản không những chỉ xảy ra trên phần đất Nga mà còn cả trên lãnh thổ Trung quốc của Mao trạch Đông, trên bắc Triểu tiên ở Việt Nam, trên đất Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại các quốc gia này, Cộng sản thực hiện mẫu mực những gì đã xảy ra trên đất Nga, trở thành phòng trào Cộng sản thế giới. Sự kiện lịch sử mà chúng ta đang trực diện có liên quan đến toàn thể nhân loại trên trái đất.

Lịch sử và ký ức được quy định trong nhiều hình thức khác nhau. Ở một nơi, nó liên hệ đến các quốc gia mà nơi đó Cộng sản không có một chút ảnh hưởng nào trong lãnh vực kinh tế hay xã hội. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ,..

Ở một nơi khác, chủ nghĩa Cộng sản tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau năm 1946. Cộng sản có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ý , ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy lạp. Tại một số quốc gia Đông Âu, Cộng Sản ngự trị hàng chục năm, cho tới những năm gần đây mới bị dân chúng hạ bệ.. Và ngọn lửa Cộng sản vẫn còn chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba , Lao và Việt Nam.

Tuỳ theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề lịch sử cũng như những ký ức không giống nhau. Trường hợp tại các quốc gia nói trên , thái độ của họ chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư . Nhưng ở trường hợp khác, họ còn phải đương đầu với một số vấn đề cần thiết cho sự hoà giải quốc gia trong những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những phạm tội đã gây ra tội ác. Nước Đức là một trường hợp đặc biệt. Việc thống nhất nước Đức quả là một phép mầu nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc chia làm hai quốc gia riêng biệt . Còn Nam Tư thì tan rã ra từng mảnh nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên thì vẫn còn còn ray rứt với cái quá khứ tội ác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng quên đi những gì trong quá khứ có thể chấp nhận để hàn gắn vết thương luân lý và tâm lý của từng cá nhân hay của tập thể.

Tại các nước Cộng sản, thì việc chối bỏ tội ác được thực hiện một cách có hệ thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc triều Tiên, Việt Nam vẫn còn cai trị bằng bạo lực.

Về phương diện luân lý, không ai có quyền phủ nhận bổn phận cuả họ đối với lịch sử và ký ức.

Không một ai có quyền bảo rằng '' Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện và Ác.'' Giáo Hội Thiên Chúa Giáo , qua thông Điệp Mit Brennender Sorge đề ngày 14 tháng 7 năm 1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI , đã chính thức lên án Chủ nghĩa Quốc Xã. Thông Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 tháng 3 năm 1937 Đức Giáo Hoàng tố cáo Cộng Sản. Thông Điệp thứ hai nhấn mạnh những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài người. Quyền sinh sống; Quyền được toàn vẹn thân thể; Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết hằng ngày; Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con đường Chúa đã vạch định; Quyền được hội họp; Quyền tư hữu; Quyền xử dụng các tư hữu này. Cho dù ai có mĩa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng vấn đề nhắc nhở con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là điều cần thiết.

Năm 1931, trong một Thông Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng, Cộng Sản hoạt động công khai và tìm đủ mọi cách kể cả bạo lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là: luôn luôn đãu tranh giai cấp và hũy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.

Cộng sản xử dụng mọi phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. Cộng sản chẳng tôn trọng cái gì cả. Nơi nào Cộng sản nắm chính quyền thì nơi đó Cộng sản cho thi hành khủng bố tàn bạo. Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á Châu đã chứng tỏ điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều ý nghĩa vì nó phát xuất từ một cơ chế tồn tại qua nhiều thế kỷ..

Nếu cho rằng Giáo Hội giữ vai trò kiểm duyệt về luân lý, thì những người viết sử phải viết làm sao về các mẫu chuyện mang tính chất anh hùng của những người Cộng sản và những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân của Cộng sản ? Trong tác phẩm '' Hồi ký của nấm mồ - Memoiries d'outre-tombe , nhà văn Francois Rene' de Chateaubriand viết : '' Trong sự êm lặng của đê hèn, người ta không còn nhớ đến những tiếng kêu của dây xích của người nô lệ hay không nghe tiếng nói của người tố cáo''. Trong khi mọi người khiếp sợ trước bạo chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù cho dân tộc.''Nhưng ở vào những ngày cuối cùng trong đời, Chateubriand không còn tin tưởng vào '' việc báo thù cho dân tộc ''. Và với tư cách là sử gia, với khả năng khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn mình là phát ngôn viên của nạn nhân, cũng phải sẵn sàng nói lên sự thật những gì mà họ đã trãi qua. Người viết sử thực hiện công việc của ý thức. Công việc của sử gia là thiết lập các sự kiện thực đã xảy ra. Ngoài ra còn có sự liên hệ của sử gia với chế độ Cộng Sản. Họ đã bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự lừa dối. Mặc dù các cánh cửa cuả các văn khố đã mở toanh, các tài liệu trình bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề phòng để khỏi trở thành quá '' thơ ngây'' trong một số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ý, cần phải tranh luận.

Nhưng các sự hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán xét, nếu muốn tôn trọng giá trị của nền dân chủ , và nhất là việc tôn trọng nhân phẩm . Trong cái ý niệm này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử. Ngoài những lý do khách quan đã thúc đẩy các sử gia sưu tầm các tội ác lịch sử, còn có lý do của cá nhân họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài liệu này đã từng là những người bị lý thuyết Cộng Sản mê hoặc. Các vị này cũng từng ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản chính thống Lenine - Staline hay chủ nghĩa Cộng sản ly khai Trosky - Mao Trạch Đông.

Việc nghiên cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba và cả ở Việt Nam cần phải có một cuộc sưu tầm rộng rãi. Đến nay chúng tôi chỉ có một số ít tài liệu. Ở vài nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có nơi chỉ hé mở. Và nơi khác thì vẫn còn đóng kín. Với tình trạng này , chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công việc nghiên cứu. Chúng tôi biết rằng chúng tôi có một số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát xuất từ những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước khởi đầu. Chúng tôi mong rằng đây là phát súng khai trương cho các cuộc nghiên cứu rộng lớn sau này.Chúng tôi khởi đầu bằng một cuộc điều tra các sự việc đã xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và không thể nào chối cãi được.

Quyển sách của chúng có quá nhiều chữ và có rất ít hình ảnh. Ngày hôm nay, con người tiếp nhận thường xuyên các tin tức, hình ảnh qua các hệ thống truyền thanh , truyền hình và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông có tác dụng rất lơn trong quần chúng để đánh giá phải trái các sự việc đã xảy ra. Chúng tôi chỉ có một số ít hình ảnh. Các trại tập trung Goulag chúng tôi không có hình. Chúng tôi có vài tấm ảnh của các trại cải tạo ở Trung Quốc. Hình ảnh các nạn đói của'' Bước tiến nhảy vọt'' của Trung Quốc thì không dễ gì có được. Ai cũng biết, đối với Cộng Sản các hình ảnh như vậy là tuyệt đối phải giữ bí mật.

Những người thắng trận ở tòa án Numberg có đủ điều kiện tự do để quay phim chụp hình, kể cả quay cảnh hàng ngàn người chết ở Bergen - Belsen. Họ cũng còn tìm thấy các bức ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xã chụp các lính Đức bắn chết một người đàn bà trên tay đang bồng đứa con. Đối với chế độ Cộng Sản thì không thể chụp hình như vậy được vì các vụ khủng khiếp này luôn luôn xảy ra trong vòng bí mật.

Xin quý độc giả rộng lượng chấp nhận một số ít hình ảnh sưu tầm trong quyển sách.

Xin quý độc giả hãy đọc thật kỹ từng trang một và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đã chịu đựng.

Xin quý vị hãy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đã diễn ra . Nó đã ám ảnh nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ còn kéo dài mấy thập niên về sau.

Câu hỏi chính yếu được đặt ra là : Tại sao những người như Lenine, Staline, Trotsky hay các đồng chí của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là kẻ thù ? Tại sao những người này có quyền giết người ?

THEO LINH NGA TAU-CHIA DOI DAT NUOC-QUAY LAI DANH GIET-CUOP CUA TRA NO

Chia của cải không đều
Ngô Nhân Dụng



Lúc sinh thời, có lần cựu Dân Biểu Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Hữu Chung viết rằng mỗi lần đến ngày 30 Tháng Tư ở Việt Nam nơi có nhiều người thích mở tiệc ăn mừng nhất là tại Sài Gòn và Buôn Mê Thuật. Vì sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 ở hai nơi đó có rất nhiều người đã chiếm được của cải mới. Họ chiếm những ngôi biệt thự mà cả đời họ vẫn mơ ước ở Sài Gòn, hoặc chiếm được những mảnh đất đồn điền mầu mỡ trên cao nguyên. Cả đời họ không bao giờ quên những chiến lợi phẩm đó, mỗi năm họ lại ăn mừng cuộc đổi đời của mình.

Nguyễn Hữu Chung so sánh hiện tượng chiếm nhà chiếm đất này với chuyện trong sử cũ: Khi quân Pháp chiếm xong Lục Tỉnh, họ cũng chia của cả cho những người Việt Nam theo Pháp. Nhiều đại gia vào thế kỷ 19 ở Nam Kỳ đã trở thành chủ nhân những cánh đồng bát ngát là nhờ cuộc đổi đời mà thực dân Pháp tạo ra. Các đoàn quân chiến thắng đều cướp và chiếm của cải, những người dân bản xứ biết theo thời cũng được “cách mạng cuộc đời” của họ như vậy. Thực dân Pháp dùng súng cướp đất rồi đem chia cho lũ tay sai. Chế độ Cộng Sản cũng dùng súng chiếm lấy quyền phân chia của cải; nhưng họ còn sử dụng mánh khóe hay hơn thực dân thế kỷ 19, là làm sao ép được người ta “hiến dâng của cải” cho đảng và nhà nước nữa. Như vậy thì không có ai mang tiếng là đi ăn cướp trực tiếp của người khác. Hiến cho nhà nước tức là cho một cái vật trừu tượng, chung chung, chứ không cho riêng một người nào cả. Sau đó, nhà nước nằm trong tay ai thì người đó được hưởng, đó lại là chuyện khác!

Nhưng có cảnh tượng mà ông bạn Nguyễn Hữu Chung đã qua đời nên không được trông thấy, là mấy chục năm sau ngày 30 Tháng Tư 1975, những cảnh cướp của và chia của cho nhau vẫn còn tiếp tục, vẫn là cảnh bọn người cướp được quyền để chia của cải cho nhau. Như vụ các quan lớn chia nhau mua đất vườn cây cao su ở tỉnh Bình Dương rồi sau đó đem bán lại, như ở Mỹ người ta gọi là “lật đảo nhà” - flipping, giống như lật miếng chả chiên trong chảo. Nhưng ở Mỹ người mua một cái nhà rồi đem flip, bán lại ngay trong một thời gian ngắn, nhà giá một triệu người ta cũng chỉ hy vọng kiếm lời được mấy chục ngàn thôi. Ở Việt Nam thì khác, các đại gia mua đất rồi bán lại, trong vòng mấy năm bỏ vốn một đồng bán ra giá tới 20 đồng, lời 2000 phần trăm! Ðó mới thật là đỉnh cao trí tuệ!

Lý do các đại quan cách mạng kiếm được lời nhiều như vậy là vì họ theo quy luật kinh tế độc quyền của đảng. Họ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tế nước ta, đúng như “Bác Hồ” dậy! Khi mua đất họ trả giá rẻ được vì chính họ làm ông thầy của cái anh đứng ra bán, bảo sao nó cũng phải nghe. Rồi khi bán lại đất, họ cũng nắm trong tay quyền sai phái cái cậu đứng ra mua, bán giá nào nó cũng phải chịu. Giống như tự mình bán cho mình, rồi lại tự mình mua lại của mình vậy, giá nào mà chẳng được? Cái “vật” được đem ra mua và bán ở đây là đất, không thuộc về các ông áy mà họ vẫn nắm quyền mua rồi bán, bán vào đúng lúc nào họ muốn. Như thế đó mới là đỉnh cao trí tuệ.

Giống như bây giờ tôi đến nhà bạn, thấy bạn có trái bưởi thơm quá. Màn thứ nhất: Tôi bảo anh đầy tớ của bạn tổ chức một cuộc bán đấu giá trái bưởi. Tôi là người duy nhất có mặt, trả giá một đồng và mua được ngay, tôi đưa bạn một đồng rồi đem trái bưởi ra về. Vài bữa sau, hay là ngay hôm sau, tới màn thứ hai: Tôi tới nhà bạn và anh đầy tớ của bạn tổ chức bán đấu giá trái bưởi lần nữa. Chỉ có mình tôi bán cho nên khi tôi xin bạn trả tôi 20 đồng, anh đầy tớ đồng ý ngay. Tôi trả lại bạn trái bưởi và cầm 20 đồng bỏ túi. Trong tất cả hai màn kịch mua bán đó, tôi nói giá nào người đầy tớ của bạn cũng đồng ý hết. Giản dị, vì nó là tay sai của tôi. Nó chỉ sợ tôi chứ không sợ ai cả. Mà bạn cũng vậy, bạn không dám cãi nó, vì bạn cũng sợ tôi nốt. Vì tôi vừa là đảng, vừa là nhà nước, lại là đại biểu của nhân dân luôn! Mua bán như vậy gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng còng số tám!” Bởi vì tôi có còng số tám sẵn trong tay, không nghe tôi cũng không được.

Câu chuyện xẩy ra ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương diễn ra giống hệt như vậy. Sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đảng Cộng Sản cướp hết đất đai ở miền Nam trong đó có những khu vườn cao su. Tất cả đất đai từ nay thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. Các ông nhà nước làm đầy tớ của dân, các ông đó do đảng chỉ định và được đảng lãnh đạo; họ chỉ quản lý đất đai giúp dân thôi.

Mấy năm sau khi “giải phóng” các thửa đất của mọi người, màn thứ nhất mở ra: Công ty quốc doanh Sobexco đang quản lý 642 ha (mẫu Tây) đất cao su tuyên bố làm ăn thua lỗ, nợ nhiều quá, xin bán đất để trả nợ. Chẳng hiểu họ vay tiền những ai, vay về làm những gì, và tại sao lại nợ nhiều như thế. Nhưng họ đã xin phép và được tỉnh Bình Dương cho phép bán. Giá đất tính bình quân 50 triệu một mẫu, hecta. Công ty Sobexco do đảng Cộng Sản lãnh đạo. Chính quyền tỉnh Bình Dương cũng được đảng Cộng Sản lãnh đạo. Và có 40 người đứng ra mua những khu đất vườn cao su đó với giá 50 triệu một mẫu, họ cũng nằm trong đảng. Nhóm 40 người này không cần đảng lãnh đạo; mà ngược lại, chính họ lãnh đạo đảng trong chuyện mua bán này! Cho nên sau vài lần thay đổi giấy tờ, Sobexco được cho phép “bán với quyền sử dụng đất,” rồi được vội vàng cấp sổ đỏ, tức là các đại gia trở thành chủ đất, những mảnh đất trước kia là của tư bị cướp biến thành của công, giờ lại quay ngược chiều biến trở lại thành tư hữu, dù chỉ nắm quyền sử dụng. Màn thứ nhất này kết thúc vào năm 2001.

Bước vào năm 2006 thì đến màn thứ hai. Biến cố chính trong màn hai này là đất tư hữu lại được biến hóa trở thành đất công với giá mới. Tất cả những màn kịch này diễn ra trong thời gian ông Nguyễn Minh Triết nắm đầu tỉnh Bình Dương và được tiếng là một cán bộ lãnh đạo tỉnh rất “năng nổ.”

Trong màn thứ hai những nhà đầu tư mua đất bắt đầu đem flip, đảo mặt cái miếng thịt chiên là những mảnh đất ngày xưa vẫn trồng cao su. Tỉnh Bình Dương có một công ty Xuất Nhập Khẩu Bình Dương, và công ty này làm ra cái dự án xây dựng Khu công Nghiệp An Tây. Tình cờ (!)nơi xây dựng dự án nằm ngay trong khu đất 642 mẫu đất trồng cao su ngày xưa, đã biến thành của tư hữu của các đại gia trong đảng. Chính cái tỉnh này đã bán đất công vườn cao su cho 40 đại gia, bây giờ họ sắp sửa mua lại.

Thương hải biến vi tang điền, cho nên sang năm 2006, số đất mà 6 năm trước đó được nhà nước Cộng Sản tỉnh “bán” với giá 50 triệu đồng một hecta, nay sắp biến thành Khu Công Nghiệp đã được công ty quốc doanh nhận đền bù cho các chủ đất với giá một tỷ đồng một hecta. Tức là mua giá một đồng, bán giá 20 đồng. Ngay Bill Gates cũng không kiếm tiền nhanh như thế! Trong bốn tháng, từ Tháng Bảy đến Tháng Mười năm 2007, công ty Xuất Nhập Khẩu Bình Dương đã trả ra hơn 500 tỷ để đền bù cho chủ của những vườn cao su cũ.

Nhưng trong số 40 đại gia của tỉnh Bình Dương có những người không chịu nhận mức lời vốn một đồng lời 20 đồng. Chắc họ nghĩ có thể còn kiếm lời cao hơn, cho nên không chịu bán. Trong số 280 mẫu đất không chịu bán đó có 185 mẫu thuộc ông Hai Tâm, mà bà vợ ông là chị của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Không biết bà Hai Tâm tính toán ra sao, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng sau này khu công nghiệp thành hình rồi thì tất cả đất đai chung quanh chắc sẽ lên giá. Biết đâu trong mười năm nửa giá một hecta đất đó sẽ lên tới 5 hay 10 tỷ đô la?

Chính vì bà Hai Tâm không chịu bán cho nên mới có vụ công an phải “cưỡng chế” bắt phải bán. Nhờ thế mà nhân dân vô sản toàn thế giới mới biết câu chuyện xẩy ra như thế nào! Chưa biết phe Nguyễn Tấn Dũng và phe chống Nguyễn Tấn Dũng sẽ đấu đá nhau kết quả ra sao. Chắc đảng Cộng Sản sẽ xử lý nội bộ với nhau để giữ “ổn định chính trị!”

Cuộc cách mạng Cộng Sản ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều là những vụ cướp tài sản. Ðúng như lời Karl Marx đe dọa: Những kẻ ăn cướp sẽ bị cướp lại! Những người Cộng Sản đầu tiên đã hát vang câu: “Bao nhiêu lợi quyền sẽ về tay mình” trong bài Quốc Tế Ca. Mình ở đây là giai cấp vô sản. Ðảng Cộng Sản cướp được chính quyền ở nước nào là họ chiếm ngay hết của cải, từ đất ruộng, nhà máy cho đến sức lao động của người dân, thu vào tay đảng sử dụng. Sau đó, đảng dựng lên guồng máy nhà nước chuyên chế thay mặt cho giai cấp vô sản để quản lý của cải chung. Nhà nước quản lý thì nhà nước phải được trả tiền công. Cũng giống như tại tại các nước tư bản có những ông bà quản lý quỹ đầu tư hedge funds (quỹ đối trọng, nói theo kiểu Hồng Kông). Trong các quỹ này các nhà tư bản góp vốn, các vị quản lý lo làm ăn sao cho vốn liếng sinh lời. Và mỗi năm các nhà quản lý được hưởng 1% hoặc 2% tài sản, cộng với 10 tới 20% tiền lời, ai không chịu thì đừng góp vốn.

Nhưng các đảng Cộng Sản khác giỏi quản lý những quỹ đối trọng. Toàn dân là những người góp vốn cho họ, không góp cũng không được, vì đây là “chuyên chính vô sản.” Các đảng viên Cộng Sản làm việc quản lý tự ấn định tiền công của mình, không tính phần trăm nào nhất định cả.

Ðến khi đảng “đổi mới” thì họ làm ngược lại, một cuộc cách mạng ngược chiều. Ðảng đem chia những của cải mà đảng đã cướp được thời trước. Ðem tư hữu hóa là cách chia giản dị nhất. Chia cho ai? Một vụ vườn cao su ở Bình Dương là thí dụ điển hình cho tất cả quá trình làm cách mạng ngược chiều của các đảng ở Việt Nam, ở Trung Quốc, và mai mốt sẽ được thực hiện ở Cuba, ở Bắc Hàn.

Ðồng bào Việt Nam coi tất cả những tấn tuồng trên mà chỉ cười trước cảnh những cán bộ Cộng Sản tranh ăn với nhau mà không ai nổi giận, thì đúng là cả nước Việt Nam đã biến thành triết nhân quân tử hết cả rồi.

Ngô Nhân Dụng
Nguồn: Người Việt Online
30-4 Và Tượng Đài Diệt Cộng

Hãy nói cho dân tôi nghe,
bọn giặc Hồ buôn dân bán nước.
Hãy nói cho dân tôi nghe ,
bọn Việt cộng bán nước buôn dân.
Bảo Giang

Quang cảnh lễ tưởng niệm Tháng Tư Ðen tại Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster,
hôm Chủ Nhật vừa qua
Cứ mỗi năm đến ngày 30-4 là người dân Việt trên toàn thế giới lại nhìn nhau và tự hỏi:
- Đến bao giờ ta mới lấy lại được quê hương để xóa đi kiếp đời nô lệ và lưu vong? Đến bao giờ ta mới được hát lại bài ca Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền với bước đi hiên ngang tự chủ trên phần đất của quê ta?
Hỏi như thế là người dân Việt Nam ngày nay đã thấm nỗi đau của việc mất nước, để người trong nước thì làm nô lệ cho Việt cộng ( chủ nghĩa cộng sản) và người ở ngoại quốc thì thật khó mà nuôt trôi miếng bánh, dù rất ngon ngọt, trên phần đất lưu đày.
• Tại sao lại có chuyện nghịch lý, người Việt sống trên quê hương mình mà phải coi là nô lệ và người ở nưóc ngoài, nay đã mang những quốc tịch ngoại như Mỹ, Úc, Pháp Canada , Đức v.v. mà lại bảo là tùi cho tấm bánh trên phần đất lưu đày? Há người viết là kẻ bi quan? Bởi lẽ, nước Việt Nam vẫn còn đó, vẫn có mặt trên bản đồ thế giới. Vẫn có một dân số ghi trong sổ bộ thế giới là hơn 80 triệu ngươi trong tổng số hơn 4 tỷ người trên trái đất. Đặc biệt, vẫn có ngôn ngữ riêng, chữ viết riêng và cả một nền văn hóa Nhân Bản do người tỵ nạn ra khỏi nước, đem vào sinh hoạt trong cộng đồng thế giới và làm cho thế giới phải ngưỡng mộ. Vậy tại sao lại gọi là mất nước?
Vâng, gọi là mât nước, bởi vì, từ năm 1930, bọn Hồ chí Minh và tập đoàn cộng phỉ đã đem chủ thuyết vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc vào Việt Nam với mục địch chối bỏ tình nghĩa gia đình, tiêu diệt nền luân lý đạo đức của xã hội, của tôn giáo rồi xoá bỏ ranh giời tổ quốc để làm nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản. Nhưng núp dưới chiêu bài chống ngoại sâm, giải phóng dân tộc. Việt cộng đã cướp được chính quyền ở miền bắc vào năm 1954 rồi đẩy cả nước vào cuộc chiến đẫm máu. Với sự trợ giúp đắc lực của hai đế chế cộng sản Nga- Tàu, Việt cộng đã thắng trong cuộc chiến súng đạn với Mièn Nam vào ngày 30-4-1975. Từ ngày đó, nước Việt Nam với chủ thuyết Nhân Bản, Dân Tộc, tôn trọng nếp sống luân lý, đạo đức gia đình, đạo đức tôn giáo, bảo vệ ý thức tự chủ về nền độc lập của quốc gia đã bị Việt cộng thôn tính và xóa sổ. Ngày nay, trên bản đồ VN, vẫn còn sắc dân Việt Nam, nhưng bản thể nhân bản xã hội của Việt Nam không còn chỗ đứng. Trái lại, chỉ có bản thể duy vật biện chứng nô lệ được tồn sinh, phát triển mà thôi. Trong chiều hướng phát triển này, người ta dễ kiểm nhận những sự kiện sau:
1, Xã hội nhân bản Việt Nam bị đồng hóa và được thay thế bằng bản thể duy vật biện chứng (ác độc. bất nhân) của cộng sản.
Tôi không biết nhiều về đời sống của dân mình trưóc năm 1954, nhưng từ sau đó và cho đến năm 1975, đi bất cứ nơi đâu, từ thôn quê cho đến thị thành, gặp bất cứ giai cấp nào của xã hội ở miền nam, tôi vẫn còn nhìn ra được, ở trong đó, tuy trình độ dân trí không cao, nhưng họ là những nhân phẩn đáng qúy trọng với đầy đủ nhân tính. Nghĩa là họ hiền hậu, đạo nghĩa, không dối trá và luôn cố gắng xây dựng đời sống dựa trên căn bản lương thiện. Ba tôi cũng thường kể cho con cháu nghe về những câu chuyện, mẫu người tương tự như thế ở ngoài bắc vào trưóc năm 1954. Nhưng ngưòi cô của tôi, ở lại ngoài bắc, đã vào thăm cha mẹ tôi ngay sau cái ngày mà người ta vẫn còn say men chiến thắng vào tháng 8-1975. Sau hai tháng thăm bà con thân nhân ở trong nam, trong bữa cơm tiễn biệt để kẻ ở Nam, người về Bắc, cô đã nói vơi cả gia đình tôi là: Điều hạnh phúc của anh chị và các cháu ở trong nam là đã được sống hơn chúng em và đồng bào ta ở ngoài kia 20 năm trong tình người chân thật. Sự giàu nghèo , cách biệt về vật chất, tuy là một khổ cực, nhưng không phải là thước đo hạnh phúc. Tiếc rằng, dưới cái chết độ này, nay mai cả nưóc ta đều phải sống bằng sự giả dối của nhũng kẻ nô lệ. Phải lừa đảo lẫn nhau mà sống!
Chúng tôi không hiểu được điều cô đã nói vào hôm ấy, nhưng dần dần, và cho đến nay,
có lẽ cả nước đã nhận chân được gía trị của câu nói ấy là: Người Việt Nam đã bị Việt cộng đồng hóa bằng đời sống dối trá, lừa đảo và phản bội. Nói một cách chính xác hơn, người Việt Nam đang phải sống theo kiểu sống của Việt cộng mà Trần quốc Thuận, phó chủ nhiệm quôc hội của chúng đã định nghĩa như sau (10-2006): “ Ngày nay, người ta phải nói dối nhau mà sống. Nói dối lâu ngày thành thói quen, Thói quen lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là đạo đức của xã hội Việt cộng”
2. Nền Văn Hóa Nhân Bản Việt bị thay thế bằng nền văn hóa nô lệ.
Nền văn hóa nhân bản của Việt Nam cả nghìn năm trước được xây dựng vững chắc trên hai lãnh vực, Văn hóa bình dân ( văn chương truyển khầu, Ca Dao Tục Ngữ v.v) và văn hóa văn tự, đặt nền tảng trên Nhân Lễ Nghĩa Trì Tín. Ai trong chúng ta chưa từng nghe qua lời ru vào đời khi còn nằm nôi: “ Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra(Ca dao). “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chi nhân mà thay cường bạo,” Bình Ngô Đại Cáo ( Nguyễn Trãi)
Đó là văn hóa, đó là tự hào và là sự tồn sinh của dân tộc. Và hẳn nhiên, ai cũng biết là ngày xưa khi đến trường, ( kể cả dưới thời pháp thuộc) một trong những điều đầu tiên trẻ đươc dạy dỗ là: Tiên học Lễ hậu học văn. Nghĩa là, học đường có cả một chương trình về Nhân Lễ Nghĩa Trì Tín cho học sinh. Hơn thế, còn cả một chương trình dài về lòng tự chủ, tính độc lập của quê hương để phát triển tinh thần yêu nươc thương dân cho những mầm non của đất nươc. Chính vì có một nền văn hóa nhân bản lâu đời ấy nên thời nào đât nước ta cũng có những anh kiệt. Xa kia thì có Hưng đạo Vương, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung… Gần thì như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Phan thanh Giản rồi Nguyễn thái Học đến những Ngô đình Diệm, Nguyễn khoa Nam, Pham văn Phú, Trần văn Hai, Lê văn Hưng Lê Nguyên Vỹ, Hồ ngọc Cẩn….Mỗi người một vẻ làm nên những nét đẹp tô thắm non sông.
Nhưng kể từ ngày đất nươc ta bị Việt cộng ( chủ nghĩa cộng sản) đô hộ, học đường không còn là nơi đào tạo những anh kiệt cho non sông nữa. Trái lại, nơi ấy trở thành lò đào luyện những bội phản và vô đạo theo gương bất nhân bất nghĩa của Hồ chí Minh.
Nói cách khác, nơi ấy chỉ chuyên lo đào tạo những kẻ phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản trong mưu đồ triệt hạ chủ nghĩa quôc gia độc lập. Kết qủa là sau mấy mươi năm dân ta bị Việt cộng đô hộ. Người dân đã đánh mất bản ngã tự chủ của dân tộc, đi sâu vào con đường bạc nhược, mất tính phản kháng nên để mặc cho đám quan chức của bọn cộng sản tự tung, áp chế, đè lên đầu lên cổ dân ta bằng những hệ thống luật pháp phi luân, phi pháp, bất nhân bất nghĩa. Phần chúng, tựa đầu vào thế lực cộng sản, chiếm lấy quyền lực và áp đặt lên dân tộc ta những bài ca không cha không mẹ, không đạo lý, không tổ quốc:
‘ Bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”, hoặc là” “ Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông hương mười,” (Tố Hữu)
Với một nền tảng văn hóa và căn cơ phản trắc bẩm sinh như thế, nên những tên Việt cộng như Minh, Đồng, Duẫn, Giáp, Khiêm đến Mười. Phiêu, Khải, Anh, Kiệt, Cầm đều tựa đầu vào thế lực của cộng sản mà nắm được quyền lực, làm thái thú ở Việt Nam, chúng đã không ngần ngại cắt đất, cắt biển của dân tộc Việt Nam để dâng cho quan thầy tầu cộng. Và ngày nay thì đến bọn Dũng, Mạnh, Triết, Trọng theo chiến lược của đảng cộng mà cắm lại cọc mốc biên giới vào sâu trong nội địa nước ta. Tệ hơn thế, chúng còn rước bọn tàu cộng vào chiếm đóng ngay giữa lòng đất của quê hương ta là Cao Nguyên Trung Phần.
Ai cũng biết, dưới một chế độ nô lệ, dân bản xứ bao giờ cũng bị áp đặt bởi một chính sách ngu dân và bưng bít thông tin, nên dân bản xứ không hề hay biết gì về những việc làm phi nhân bất nghĩa của nhà cầm quyền. Thời Pháp thuộc, dĩ nhiên, cũng không có ngoại lệ. Nhưng nay dưới thời Việt cộng, dân ta còn bị áp đặt bằng một hệ thống tuyên truyền bất lương gian trá hơn. Từ sách giáo khoa về địa lý, lịch sử cho đến báo chí và truyền thanh truyền hình thời sự, giao tế hàng ngày, hầu như rất khó tìm được một biểu hiện thật, tin thật. Trái lại, chỉ thấy những trò bất lương và gian trá của nhà nước để lừa dối dân chúng. Tệ hơn thế, chúng còn ra sức biến dân ta thành một tập đoàn chỉ biết nói dối, lừa đảo nhau mà sống. Ai dám nói lên điều thật lẽ thật thì ngục tù, tra tấn của chế độ áp bức ấy không hề nương tay.
Theo đó, nếu đem so xánh cái bạo tàn của thời Pháp thuộc với cái ác độc của chế độ cộng sản thì xem ra, cái bạo tàn, ác độc của chế độ Việt cộng đè trên cổ dân ta còn bạo tàn gấp trăm lần cái bạo tàn của phong kiến và thuộc địa góp chung lại. Thực vậy:
1. Thời Pháp thuộc, chúng củng giết dân ta, nhưng đa phần là giết lén lút, và giết từng cá nhân đơn lẻ. Thời Pháp thuộc không có chính sách giết người tập thể như Việt cộng đã áp dụng vào thời đấu tố, hay trong lúc chiến tranh vào tết Mậu Thân ở Huế vào năm 1968. Và chưa có thời nào những kẻ sát nhân lại đắc dụng như thời Việt cộng
2. Thời Pháp thuộc, nhà cầm quyền vẫn có chủ trương xây dựng và giáo dục nền văn hóa, luân lý nhân bản xã hội cho học sinh. Trái lại, chế độ áp bức của Việt cộng chủ trương xây dựng xã hội không dựa trên chủ thuyết nhân bản và luân lý xã hội. Nhưng dựa trên nền tảng vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo. Chúng muốn xoá bỏ hẳn nền luân lý nhân bản đạo đức của xã hội để theo gương của Hồ chí Minh là chối bỏ tình nghĩa, liên hệ trong gia đình. Hủy diệt niền tin và luân lý đạo đức của tôn giáo của xã hội, cuối cùng là xóa bỏ biên cương của lãnh thổ
3. Dưới thời Pháp thuộc, đường biên giới của tổ quốc ta không bị xâm lấn và bọn thực dân cũng không bao giờ cắt đất cắt biển của dân ta giao cho kẻ khác, để cùng chia sẻ quyền lợi với lân bang.
Thời cộng sản đô hộ dân ta thì sao?
1. Về đối nội, như đã nói ờ trên. Mặt đối ngoại: Chúng chủ trương đưa đất nước Việt Nam vào qũy đạo thuộc địa, làm nô lệ cho tàu cộng. Bằng chứng điển hình là:
1. Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng đã cúc cung đời nô lệ qua việc ký công hàm năm 1958, công nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng trên quần đảo Trường Sa Hoàng Sa là phần đất thuộc Việt Nam về mặt lịch sử và trực thuộc miền nam Việt Nam quản trị theo hiệp định Geneve năm 1954 quy định.
2. Đến cuối năm 1999 và 2000, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn mạnh Cầm lại ký hiệp định và hiệp thương về biên giới và lãnh hải nhường thêm những địa danh như thác Bản Dốc, Ải Nam Quan và vùng biển bắc bộ rộng hàng ngàn ngàn Kilô mét vuông trên bộ cũng như lãnh hải, cho Tàu cộng để tỏ rõ ý chí thần phục bành trướng phương bắc.
3. Đến nay, Nguyễn tấn Dũng, Nông đức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Phạm phú Trọng, không những chỉ đồng ý đóng lại các cột mốc ở biên giới lui sâu vào xương thịt Việt Nam cho vừa lòng Tàu cộng. Chúng còn ruớc Tàu qua cao nguyên trung phần Việt Nam, tiếng là nhượng đặc quyền quản trị và khai thác mỏ bauxite. Nhưng thực tế là chúng đang thực hiện chủ trương đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của tàu bàng cách bao che và khai mở ra cuộc di dân vĩ đạì, được bảo vệ và tổ chức từ phương bắc tràn qua lãnh thổ Việt Nam sinh sống một cách hợp pháp. Hợp pháp vì nhà cầm quyền Việt cộng có khi nào dám đòi hỏi đến việc cấp chiếu khán có thời hạn, hoặc được quyền kiểm soát số nhân viên thuộc công nông trường và an ninh của tàu cộng sang sinh sống, khai thác hầm mỏ hay rà đặt các căn cứ quân sự? Những đặc khu này có phải là một nhượng địa cho Tàu cộng hay không?
Đó là những tội trạng, Trời không tha, đất không dung của Việt cộng đã phạm với dân tôc ta. Nhưng tệ hại hơn cả là, cho đến nay nhiều người vẫn chưa nhìn ra được là mình đang sống dưới ách nô lệ của cộng sản. Cứ tưởng Việt cộng là nguồn gốc nhân bản Việt Nam, nên vẫn có kẻ đi theo chúng để kiếm sống, rúc rỉa tìm ăn trên muôn vàn thống khổ của toàn dân. Tệ hơn thế, còn có loại cho chúng là những “ lương đống” đã ra tay cứu dân cứu nước.
Nay, 30-4 rồi, hãy thực tâm một lần, đặt chúng lên bàn cạn đo và hỏi xem chúng là ai?
Chúng là những lương đống, tôi thần cứu nước của Việt Nam hay là bọn gian manh bán nước. Hoặc chúng là tiên là phật là thánh là người hay là loài có đuôi?
1. Là những lương đống, tôi thần cứu nước thì không thể là những kẻ bán nước giết dân. Bọn Hồ chí Minh và Việt cộng không đồng nghĩa với định nghĩa này. Bằng chứng, hãy nhìn cuộc đấu tố từ 1953- 1957, rồi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm đến tết Mậu Thân ở Huế. Hãy nhìn cho kỹ những bản văn chúng gọi là công hàm về Trường Sa, Hoàng Sa năm 1958 và hiệp thương về Nam Quan, Bản Dốc vào năm 1999 và năm 2000 thì đủ biết chúng không phải là nhưng “lương đống” của dân Việt. Trái lại, chúng đích thực là những tên nghịch tặc phản quốc cầu vinh.
2. Bảo rằng chúng “đánh Mỹ cứu nưóc, giải phóng miền nam“ để cứu dân chăng? Dứt khóat ngươi dân Việt Nam không cầu có cuộc chiến này. Nói cách khác, ngưới Việt Nam cầu có được cách “nô lệ” vào những tháng ngày trưóc 30-4-1975. Ngưới Việt Nam không muốn nhận những qủa đạn giải phóng vào trường học Cai Lậy để giết chết những mầm non của quê hương Việt. Việt Nam không muốn nhận những qủa đạn giải phóng gởi vào nhà thờ, gởi vào nhà Chùa. Người Việt Nam không muốn đươc giải phóng bằng lựu đạn, bằng dao mã tấu và bằng đạn Ak, bằng sơn pháo dọc trên các đại lộ, trong thành phố hay trong các thôn làng. Nhưng ngươi Việt Nam muốn đươc “nô lệ “ trong Tự Do, Nhân Quyền, Công Ly và muốn hưởng một xã hội ấm no trong nền luân lý và đạo đức làm ngươi như trước ngày 30-4-1975. Đó là lời thật, lẽ thật. Đó là ươc muốn của ngươi dân Việt Nam. Nên “ giải phóng miền nam” chỉ là ngụy từ của một bọn cướp không hơn không kém.,
3. Việt cộng muốn gì khi chúng khơi cuộc chiến tranh? Trước hết là muốn giải tỏa áp lực ở miền bắc. Sau cuộc đấu tố phú nông địa hào dã man từ 1953-1956 và vụ án Nhân Văn Giao Phảm, miền bắc đã thực sự rơi vào cơn khủng hoảng, không có lối thoát. Nên việc mở chiến tranh vào miền nam vơi chiêu bài “ chống Mỹ cứu nước” chỉ là một phương cách giải áp lực cho bè lũ cộng sản ở miền bắc cũng như để chúng thực hiện phương cách làm tay sai, mở rộng biên giới cho bọn cộng sản Ngà tàu. Theo đó, không thể có chữ “ lương đống” cho bọn gian manh cộng sản.
Chẳng lẽ chúng lại là Tiên, là Thánh, là Phật hay là người?
Câu hỏi này không khó trả lời. Bởi vì, nếu là Phật thì Phật không thể pháo kích vào chùa giết Phật tan như xác pháo. Là Thánh thì thánh đã không đột kích nhà Thờ để tặng cho tượng Thánh qủa mìn nát tan thây. Là người thì người không thể tặng mìn tặng pháo, tặng mã tấu cho ngưòi miền nam. Vậy chúng là ai? Qủy dữ chăng? Không, chúng là Việt cộng đãy. Không phải là Phật, không phải là Thánh và cũng không chắc là người có nhân tính đâu. Bởi lẽ, trong sách vở vẫn thường bảo rằng, Chỉ có loài ác qủy mới chống lại thần thánh và nhân bản con người thôi!
Nay, sau 34 năm đưa lên bàn cân đo, tôi tin rằng không còn một người Việt Nam nào nghi ngờ về sự kiện là Tiên là Phật là Thánh là lương đống là ngưòi có nhân bản tính của chúng nữa. Trái lại, những bộ măt thật của loài có đuôi đã hiện nguyên hình rồi. Theo đó, chỉ cón lại một câu hỏi duy nhất là: bằng phương cách nào chúng ta sẽ khai trừ chúng ra khỏi xã hội Việt Nam?


Nhân ngày Quốc Hận thứ 34, ta hãy nhìn lại mính và hãy nhìn người xem thế nào? Việt Nam và Ba Lan có những gì khác hoặc giống nhau, để một bên đã thành công trong việc thiêu rụi cái chữ chủ nghĩa cộng sản trên quê hương, còn một bên vẫn phải còng lưng đeo hai chữ nô lệ cho cộng sản.
Này nhá:

* Ba lan chỉ có mỗi tượng đài Lech Walesa. Việt Nam ta có cả trăm, thậm chỉ cả ngàn tượng đài Lech walesa!
* Ba Lan chỉ có mỗi công đoàn Đoàn Kết. Việt Nam ta có hàng trăm đảng phải, hội đoàn, tổ chức chống cộng.
* Ba Lan có một khát vọng tiêu diệt cộng sản để xây dựng một xã hội Tự Do, theo thể chế Dân Chủ Đa Nguyên và dựa trên nền tảng Bình Đẳng và Công Bằng trong xã hội Việt Nam ta cũng có cùng chung một khát vọng như dân tộc Balan. Nhưng tại sao họ thành công còn ta thì mãi chỉ là một giấc mơ.
Dễ hiểu lắm, tại họ chỉ có một Lech Walesa, chỉ có một công đoàn đoàn kết, còn ta có nhiểu qúa!

- Bạn toàn nói chuyện dở hơi, càng đông càng vui, càng nhiều càng qúy chứ? Tiền nhiều không thích lại thích có một đồng à?
Vâng qúy lắm. tôi viết thế, không có nghĩa là Ba Lan chỉ có một tổ chức và chỉ có mỗi một Lech Walesa. Nhưng là Ba Lan và hàng trăm hàng ngàn Lech Walesa khác biết xây cho quốc gia của họ một tượng đài là Lech Walesa và một công đoàn Đoàn Kết để đối đầu với cộng sản. Chính điểm này, họ đã thắng cộng sản.
Nay nhìn về Việt Nam, hỏi rằng chúng ta có thể xây cho quê hương ta một tượng đài khả dĩ có thể đạp đổ chế độ cộng sản tại đó chăng?
Dĩ nhiên là có và chắc chắn tượng đài của chúng ta xây, nếu không hơn thì cũng không thể nào thua kém Lech Walesa. Đó là Lê thị Công Nhân. Một luật sư trẻ đủ can trường, đầy ắp lòng nhân, có trí, đã tự xóa bỏ đi cái đài các kiêu xa của mình để nhập ngục cứu quốc. Người này rất xứng đáng để người dân Việt gởi gắm niềm tin, để ký thác thành một tượng đài tiêu biểu cho toàn dân trong công cuộc diệt cộng cứu quốc và kiến quốc. ( viết như thế, tôi e rằng có nhiều người chu mỏ, bỉu môi và cho kẻ viết là nông cạn. Vâng có thể là như thế. Nhưng xin những ai kia dám chu mỏ ra, hãy nhìn kỹ xem, mình là ai, đang ở một chỗ đứng nào để tin rằng, tôi đây mới đúng là tượng đài?). Lại nữa, ý kiến này không có nghĩa là Lê thị Công Nhân ở trên hết thảy. Trái lại, trong cuộc thế hiện tại, Lê thị Công Nhân cũng giống như Aung San Suu Kyi là niềm tin của Miến điện hoặc là Nelson Mandela của Nam Phi lúc trước. Theo tôi, một khi tượng đài Lê thị Công Nhân càng cao, càng chắc cái tượng bùn của Hồ chí minh càng chóng tàn.
Để kết cho bài viết này, tôi xin được ghi lại đây một câu chuyện nhỏ với vài ba người bạn trong cuối ngày trước đêm 30-4-2009.
1. Ở Ba Lan có nhiều người tài giỏi, kinh nghiệm tranh đấu, học vị, địa vị cao hơn Walesa lúc khởi đầu không?. Có và có rất nhiều.
2. Ở Việt Nam có nhiều người tài giỏi, kinh nghiệm tranh đấu, địa vị học vị cao hơn Lê thị Công Nhân không? Có và có rất nhiều.
3. Lê thị Công Nhân có can đảm bằng Lech Walesa không? Hơn, hơn hẳn, Nhân dám thách đố với cái chết và coi việc nhập ngục cứu quốc như đi một nhận một nhiệm sở mới.
4. Lê thị Công Nhân có được học vị như Lech Walesa không? Hơn, hơn hẳn, Lê thị Công Nhân là một luật sư. Lech Walesa là một thợ hàn trong nhà máy.
5. Lê thị Công Nhân có được người dân thưong mến như dân Balan qúy trọng Lech Walesa không? Cho đến nay chẳng một người nào ghét bỏ Lê thị Công Nhân cả.
6. Lê thị Công Nhân có bị điều tiếng gì hay không? Không tuổi trẻ và tấm lòng trong sáng của Nhân vì đất nước thì đến nay, ai cũng qúy mến.
7. Lập trường của lê thị Công Nhân thì như thế nào? Hướng đi của Lê thị công Nhân đã được bày tỏ trong Cương Lĩnh tạm thời của đảng Thăng Tiến Việt Nam. Còn về lập trưòng cá nhân thì chính Lê thị Công Nhân đã công bố” cho dù chỉ còn có một mình tôi trên đường tranh đấu cho Nhân Quyền thì tôi cũng đi cho đến cùng. Công sản đừng có mong chờ bất cứ một thỏa hiệp nào, chứ đừng nói là sự đầu hàng từ phía tôi.”.
8. Nói thì ai chả nói được. Có gì bảo chứng cho lời nói ấy không?
9. Lê thị Công Nhân dám nhập ngục cứu quốc như đi nhận một nhiệm sở mới, có thể là một minh chứng cho hành động đi đôi với lời nói hay không?.
10. Lê thị Công Nhân còn qúa trẻ, non tay lắm, sợ rằng không gánh nổi trọng trách. Dĩ nhiên, công việc phải cần co nhiều ngưòi san sẻ bớt. Nhưng gìa mà chi? Khi ngồi xuống lại cần có ngươi kéo ghế, lúc đứng lên lại cần có người dìu! Ấy là chưa kể đến việc, lớn hay cầu lợi, trẻ thì vì lý tưởng. Đàng nào qúy hơn?
11. Ngoài Lê thị Công Nhân ra còn ai khả dỉ? Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn không chừng! Tuy nhiên, Nhị Trưng xưa có em có chị, Lê thị công Nhân không thể thiếu KHG Dương Nguyệt Ánh. Đây là người thứ hai, (thành một cặp Nhị Trưng của thời đại) khả dĩ có thể kết hợp toàn dân lại thành một khối để đập nát cái tượng bùn Hồ chí Minh.
12. Anh nói nghe lạ, còn Hoà Thượng Thích Quảng Độ, LM Nguyễn văn Lý, những bậc thầy ấy không khả dĩ hay sao? Không, vì các Ngài là những bậc chân tu khổ hạnh, thấy đơi nhiều dâu bể thì các Ngài lên tiếng tranh đấu đòi quyền sống, tạo hạnh phúc cho dân. Các Ngài không phải là những nhà làm chính trị. Các Ngài có những chỗ đứng rất đặc biệt trong lòng dân Việt, nhưng chắc chắn các Ngài không phải là những người tham chính, nên không khả dĩ.
13. Còn những nhà tranh đấu khác đang ở tù hay còn ở trong nưóc thì sao? Cha ông ta ngày xưa có bảo: một cây làm chẳng nên non. Tất cả đều là những tinh hoa của đất nước, nhưng có lẽ không một ngưòi nào trong số ấy khả dĩ có thể trở thành Lech Walesa cho Việt Nam hôm nay, ngoại trừ Lê Thị Công Nhân.
14. Ý kiến của anh nghe cũng ngộ ngộ, nhưng e rằng không thực hiện được! Tôi biết cái lý do ông muốn nói rồi. Không phải tôi nghe một lần, nhưng đã nghe hàng trăm ngàn lần, nghe suốt 34 năm qua rồi. Nhưng nếu không thực hiện được thì cái nghĩa trang ở hải ngoại sẽ còn chôn vùi thêm nhiều tên tuổi khác nữa. Và chờ ngày về thì…. cứ yên trí vác cờ đi mà kỷ niệm ngày Quốc Hận.
15. Bạn có vẻ bi quan, không dám tin vào cuộc quật khởi của dân tộc ta hay sao? Vâng tôi là kẻ nhát gan, rất yếu lòng tin. Điểm tựa không có, tôi lấy gì mà tin. Lực không, thế không, tượng đài cũng không lấy gì mà quật với lại khởi.
16. Trong cuộc chiến này dân ta cần điều gì nhất.
17. Những người can đảm,.
18. Dân ta đã có thừa những người can đảm.
19. Bạn hay nói chơi qúa. Nếu có nhiều ngươi can đảm thì họ đã dám vất bỏ cái tôi đi, rồi ngồi chung với nhau trong một lôcốt mà chiến đấu. Trong vườn thì cần nhiều loại hoa đua nhau nở, nhưng trong cuộc chiến thì chỉ cần một tư lệnh là đủ.
20. Đồ gàn…
21. Vâng, nhưng không dở…
Bảo Giang

CNCS: GIET NGUOI KHAC DE MINH KHOI BI GIET

Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo cướp
là cướp !!!
Ban Biên Tập TDNL (01.04.2009 số 72) Tiếng Nói của người dân Việt Nam đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Bài thơ một thời của thi nô Tố Hữu : “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo thắng là thắng!...”, một bài thơ từng góp phần lường gạt và đẩy hàng triệu thanh niên Việt Nam vào chỗ chết để xây nên ngai vàng bạo chúa cho tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện thời, bài thơ ấy nay được nhân dân cải biên rất chí lý thành: “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...”.

1- Quả thế, sau khi “cướp chính quyền” (họ vỗ ngực tự hào thế), đảng CSVN đã lộ nguyên hình một đảng mafia và đào tạo ra cả một bọn cướp đông đảo trên đất Việt Nam. Đây là thành quả chủ yếu và có thể nói là “vĩ đại” nhất trong “sự nghiệp trồng người” của Hồ Chí Minh, “sự nghiệp giáo dục” của “cách mạng VN”. Với nhiều kỹ thuật: đầu độc nhồi sọ, o bế dụ khị, hăm dọa trấn áp, hứa suông hẹn hão, đảng CS đã biến vô số người Việt hiền lương thành một bầy lâu la, chẳng còn biết thế nào là lương tâm và luật pháp (dù là luật pháp CS), một chỉ nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh mà đi tàn hại đất nước và dân lành, góp phần củng cố sự thống trị bất công của đảng, của thiểu số lãnh đạo cao cấp trong đảng. Đám lâu la, bầy tiểu yêu, lũ tay chân này không chỉ là hạng tứ chiếng giang hồ, đâm thuê chém mướn, mặt mày bặm trợn, thuộc thành phần “xã hội đen” (nay được đảng rất trọng dụng trong các cuộc đàn áp) mà còn là những kẻ ít nhiều có học, nhà cửa đàng hoàng, sắc phục nghiêm chỉnh, đi đứng ăn nói chững chạc, có địa vị danh tước trong xã hội… Chúng không chỉ theo lệnh đảng đi đánh thân thể người, cướp đất đai nhà cửa thiên hạ mà còn đánh nhiều thứ khác, cướp nhiều thứ khác của nhân dân. Xin đan cử vài ví dụ rất thời sự.

Trước hết, đám tay chân này đang ngồi trong một nơi lẽ ra rất đáng trọng vọng là Bộ Giáo dục và Đào tạo CSVN. Qua cái gọi là “Chương trình giáo dục mầm non từ 3 tháng đến 6 tuổi” do Bộ này đưa ra hôm 11-02-2009, trong Phần III (Chương trình giáo dục mẫu giáo), mục 4 (Giáo dục phát triển tình cảm-xã hội), cả hai lứa tuổi từ 3 đến 4, 5 đến 6 đều được đúc khuôn uốn nắn theo tôn chỉ “kính yêu Bác Hồ và những người có công với quê hương đất nước” (chủ yếu là các công thần đảng CS) (trang 53). Đi vào chi tiết thì cả độ tuổi 3-6 đều được yêu cầu “nhận ra Bác Hồ, đầu tiên qua tranh ảnh, băng hình, đoạn qua lăng Bác (nhà trường tổ chức đi thăm), rồi qua chỗ Bác ở, nơi Bác làm việc…” Chưa đủ, bên cạnh việc nhận ra, thầy cô còn phải dạy các em thích nghe chuyện, nghe hát, đọc thơ, xem ảnh “Bác Hồ”, đoạn thích và thuộc một số bài hát, bài thơ về “Bác”, rồi thì biết một số bài hát, bài thơ, câu chuyện về “Bác” nữa (trang 68)!?! Đưa ra cho các tâm hồn thơ bé mẫu gương của một con người mà khi còn sống đã phạm tội ác với thân thuộc bạn bè, đã giở đủ mọi thủ đoạn lừa gạt nhân dân, đưa họ đi theo con đường chém giết, cướp giật, khi chết còn nằm ăn vạ 80 triệu người Việt Nam, từ đứa trẻ lọt lòng mẹ đến cụ già gần đất xa trời, làm điêu linh cuộc sống trăm họ, khiến đất nước khốn khổ tang thương, suy đồi đốn mạt như hôm nay, đó là một việc đầu độc hết sức đáng tởm, một sự cướp đoạt lương thức con người không thể chấp nhận.

Thứ đến, đám lâu la này cũng có mặt những nơi mà người ta nghĩ là phải phục vụ công lý và sự thật. Dưới danh xưng “sở tư pháp”, “luật sư đoàn”, “phòng thuế vụ”, “cơ quan công an”, “ban thi hành án”, bằng đủ cách như “xử phạt hành chánh”, “đòi giải trình thuế”, “khám xét hành lý”, “kê biên tài sản”, “mời đi làm việc” đầy thủ đoạn mờ ám, phi lý, vô luật, vừa qua chúng đã đánh hội đồng những con người đang bảo vệ công lý cho giáo dân Thái Hà bị án oan và cho các nhà dân chủ bị tù oan là luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự. Chiếm đoạt máy móc, tước quyền hoạt động, chặn đường đi lại, quấy nhiễu gia đình, mạ lỵ xuyên tạc trên báo đài, nhắn tin hăm dọa chửi bới trên điện thoại, cưỡng bức xúi giục khách hàng thân chủ vu khống, gởi giấy mời đến tòa biện hộ sau phiên xét xử… những việc đánh phá ấy đối với Văn phòng Luật sư pháp quyền có phải được thực hiện bởi các tay du thủ du thực, những kẻ cướp đêm cướp đường, giai tầng cặn bã của xã hội đâu!

Cùng chịu những trò như Luật sư Luật là 8 giáo dân và cả vị cai quản giáo xứ Thái Hà là linh mục Vũ Khởi Phụng. Trên tờ Hà Nội Mới, ở trang nhất, liên tiếp hai ngày 26-27/03, tức trước phiên tòa phúc thẩm, bài viết đầy sát khí "Phải vạch mặt và xử lý nghiêm những kẻ chủ mưu" đã cho ai nấy thấy “trận đánh” nhắm vào Thái Hà của nhà cầm quyền CS đã chính thức chuyển hướng. Tám giáo dân bây giờ được gạt sang một bên và kẻ đang bị đưa vào “tầm ngắm” để thế chỗ không còn ai khác hơn linh mục chánh xứ Vũ Khởi Phụng, với những luận điệu "Thực chất họ [giáo dân] đang là nạn nhân của những kẻ xấu đứng đằng sau, muốn thông qua họ để gây khiếu kiện, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc". Và quả nhiên thông tin từ trong tòa án ra bên ngoài lúc 11g sáng ngày phúc thẩm (27-03-2009) cho thấy phiên xử đã được công tố cũng như quan tòa lái theo hướng : "Nếu các giáo dân chấp nhận cúi đầu nhận tội và khai ai là người cầm đầu thì được tha bổng hết". Trước đó một ngày, các viên chức chính quyền tại Hà Đông đã đi nhắc nhở dân địa phương nên đóng các cửa hàng quán lại, đề phòng “bọn giáo dân” gây bạo loạn, với lời nhắc nhở: “Ngày mai sẽ xử “bọn giáo dân” phá nhà. Bọn này ghê lắm…”, khiến người dân phải kháo láo với nhau: “Chúng nó phá bao nhiêu nhà dân ngoài Hà Nội. Giờ kéo vào đây, công an nhắc nhở chúng tôi không cẩn thận chúng phá cả cửa hàng. Ngày mai học sinh các trường quanh tòa án đều phải nghỉ học cả đấy!” Rồi trong ngày phúc thẩm, đang lúc bên ngoài hàng trăm công an chìm nổi trang bị tận răng, mặt đằng đằng sát khí, thì bên trong tòa án, dưới bộ áo “thẩm phán uy nghiêm”, hội đồng xét xử vẫn ngang nhiên cắt lời, chặn họng các luật sư bào chữa, và cuối cùng, vẫn cứ theo chỉ đạo ở trên mà tuyên phán y án cho các bị can vô tội. Rõ ràng những kẻ núp dưới danh nghĩa bảo vệ công lý và phục vụ sự thật đã hành xử như bọn cướp, vâng lệnh đánh thanh danh, cướp danh dự của nhiều công dân lương thiện. Đấy là chưa kể kế hoạch tước đoạt phương tiện, vu khống thóa mạ các cá nhân và tổ chức đấu tranh cho nhân quyền như Khối Dân chủ 8406, như trang blog Người Buôn Gió, như nhà đối kháng Đỗ Nam Hải (bị cướp máy móc đến lần thứ 8)…

Chuyện đảng viên cán bộ địa phương cướp đất đai tài sản của nhân dân, với sự bao che của trung ương (vốn đã nhận tiền “đút lót, lại quả”) là bộ phim dài nhiều tập. Ta hãy nghe một đoạn trong ký sự “Thị trấn Bô-xít tại Lâm Đồng” của Lý Nam Bình: “Người dân Lộc Thắng thì đi đâu cũng bàn tán xôn xao về mỏ Bô-xít. Họ kể về những gia đình được nhận trên 1 tỷ đồng tiền đền bù giải tỏa để giao mặt bằng, nhưng ra thị trấn hay xuống thị xã mua nhà vẫn không đủ. Có người không chịu đi bị cưỡng chế, sau đó tiền đền bù mất hơn 400 triệu trừ vào chi phí cưỡng chế. Có người tiếc vườn chè, vườn cà phê, quyết ôm cột nhà không đi, bị xe múc vào múc bể đầu chết ngay tại chỗ mà còn bị kết tội là chống người thi hành công vụ…” Hay trong ký sự “Đại loạn tại Trường Yên” của Trần Khải Thanh Thủy: “Đất ở đây có giá 5 triệu/m2. Chính quyền xã đồng ý trả lại cho các gia đình bị thu hồi đất mỗi nhà 10% đất dịch vụ, với giá 2 triệu một m2. Nghĩa là bị cưỡng ép bán ruộng với giá rẻ, vẻn vẹn 220.000 một mét, song lại "được" xã ưu tiên nhượng lại với giá gấp 9-10 lần, với lý do nhà chật, đông anh em trai, thiếu đất ở và đất sản xuất... Bán cả sào đất, được 80 triệu thì mua lại đất xã bán… người nông dân chỉ còn vẻn vẹn 8 triệu, còn mất đi 9/10 số đất đã có. Quả là một dạng ăn cướp tinh vi, cướp trên cơ sở luật pháp của nhà nước XHCN. Lực lượng cưỡng chế cậy lệnh, cậy đông, khinh nhờn quyền dân nên hung hăng như giữa chốn không người, trong lúc chủ tịch xã cầm loa oang oang kích động, ra sức tuyên truyền đường lối và chủ trương "đúng đắn" của đảng và nhà nước: “Đất đai là sở hữu của nhà nước! Khi cần, nhà nước ra lệnh trưng thu, đề nghị bà con thôn ta tự nguyện chấp hành”.

2- Sở dĩ có cảnh “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...” như thế, đó là vì chính CSVN đang là tên đầy tớ chịu lệnh của CS Trung Quốc. Cái đảng Đại Hán này đã và đang ra lệnh cho tay chân, đàn em phải đi, phải đánh, phải cướp cơ đồ nước Việt mà dâng cho họ. Đầu tiên là qua công hàm ô nhục năm 1958, tiếp đến qua 2 hiệp định lãnh thổ và lãnh hải đầy khiếp nhược năm 1999 rồi 2000, đoạn qua việc câm lặng để cho Trung Cộng tống cổ hai công ty dầu khí Mỹ và Anh khỏi thềm lục địa VN năm rồi. Mới đây nhất, nguy hiểm nhất, quân cướp Việt Cộng lại đánh đuổi cư dân khỏi Tây nguyên, đánh bạt tiếng dân khắp cả nước, để cho tướng cướp Trung Cộng đem nhân công và máy móc của mình vào yếu huyệt sinh tử, tiền đồn quan trọng đó của Quốc gia (chưa kể cho Trung Cộng thắng thầu rất nhiều công trình trọng điểm về điện, ximăng, hóa chất). Rồi giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, thậm chí giữa xung đột quốc tế trên biển Đông, bộ Chính trị CSVN vẫn liên tục tiếp các đại diện Bắc triều để nhận lệnh: Uỷ viên Quốc vụ viện Trung Cộng là Đới Bỉnh Quốc được cả ba lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Cộng tiếp trong hai ngày 19 và 20-03-2009. Rồi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng Tham mưu trưởng quân đội Nguyễn Khắc Nghiên, và sau đó là Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, lại tiếp Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Cộng hôm 23-03… Cùng ngày, Đới Bỉnh Quốc và Phạm Gia Khiêm, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao VC, chứng kiến lễ ký giao ước thiết lập đường dây điện thoại nóng giữa lãnh đạo cao cấp hai nước.

Đứng trước nạn cướp bóc Nhân dân và Dân tộc này, có những con người anh dũng đã lên tiếng, nổi bật nhất trong đó là Khối 8406 (sắp kỷ niệm 3 năm ngày thành lập) và Hòa thượng Quảng Độ, người vừa ra lời kêu gọi Đồng bào các giới trong nước bất tuân dân sự, biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây Nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng (30-3-2009). Toàn dân còn đợi gì mà không cùng đứng lên với họ?
Nguy Cơ Mất Nước Đã Đến Rất Gần
NGUYỄN CHÍNH KẾT
Hiện nay, Cộng sản Việt Nam đã lộ ra bộ mặt thật: sẵn sàng bán nước để bảo vệ ngai vàng quyền lực của mình. Các cán bộ cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam đang tìm cách tận dụng thời gian còn tại quyền để làm giàu, để vơ vét tiền bạc trong nước, bất chấp làm cho hàng triệu người đau khổ, tuyệt vọng. Họ hy vọng nhờ đó có được cuộc sống tột bậc vinh hoa phú quí trong tương lai, tương tự các bạo chúa thời xưa (Tần Thuỷ Hoàng, Trụ Vương…) và thời nay (như Sadam Hussein, Kim Chính Nhật). Họ muốn, với bất cứ giá nào, kéo dài thời gian độc quyền thống trị đất nước để có thể vơ vét được ngày nào hay ngày ấy…

Để làm giàu và vơ vét tiền bạc vào túi, họ tìm cách bóc lột người dân. Trong dân chúng, không có giới nào dễ bóc lột cho bằng dân nghèo mà nông dân và công nhân là chủ yếu. Vì dân nghèo là giới ít khả năng tự vệ nhất, dễ ức hiếp nhất. Vì nghèo nên họ không có tiền đi học. Không có tiền đi học thì không có nhiều khả năng suy nghĩ, tính toán. Suốt ngày chỉ lo việc ăn mặc thôi cũng đủ chiếm hết thì giờ, đầu óc và năng lực, không còn khả năng hay đầu óc để nghĩ đến việc chống đối. Nếu bị dồn đến đường cùng nên phải đấu tranh để tồn tại, thì giới này sẽ bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp thẳng tay, bị đưa ra toà với những tội danh bịa đặt: gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, lợi dụng tự do dân chủ… Vì thế những dân nghèo bị cướp, bị bóc lột hiện nay bị dồn vào tình trạng không lối thoát.
Để bảo vệ độc quyền cai trị hầu có thể làm giàu được mãi, họ chủ trương “đội trên đạp dưới”: một mặt họ thần phục một cách nô lệ quan thầy Trung Quốc để nước đàn anh này bảo trợ cho ngai vàng của họ; mặt khác họ ra tay đàn áp tàn bạo tất cả những tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước, cho dù là đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Để quan thầy Trung Quốc bảo trợ cho mình khả năng thống trị đất nước, Bộ Chính trị hay Trung ương đảng CSVN đã nịnh bợ quan thầy một cách hèn hạ, đốn mạt hơn bất kỳ một triều đại nào trong lịch sử. Những cá nhân hay tập thể phản quốc như Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống trong lịch sử cũng chỉ dâng biếu đầu hàng, hay dâng một số vàng bạc châu báu hoặc nhượng một phần rất nhỏ lãnh thổ quốc gia cho Trung Quốc. Họ không cam tâm dâng quá nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải cho ngoại bang như đảng CSVN. Và họ cũng chỉ có những hành động phản quốc ấy khi ngai vàng của họ có nguy cơ bị mất đến nơi, chứ không như đảng CSVN đã hành động phản quốc ngay khi ngai vàng của họ vẫn còn rất vững vàng.
Suốt hơn 60 năm qua, đảng CSVN do Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và những người kế tục lãnh đạo, đã nịnh bợ quan thầy Trung Quốc đến mức sẵn sàng chấp nhận cho kẻ thù dân tộc xâm phạm lãnh thổ lãnh hải của tổ quốc mình, bất chấp sự nguy hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Hành động bán nước cho Trung Quốc đã quá rõ ràng qua những sự kiện:
• Chấp nhận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa + Trường Sa: Năm 1958, sau 4 năm chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Mới đây, khi Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa, chính thức sát nhập hai quần đảo trên vào lãnh thổ Trung Quốc, đảng CSVN không chỉ hoàn toàn im lặng chấp nhận, mà còn đàn áp tàn bạo các nhà đấu tranh dân chủ và các sinh viên biểu tình phản đối việc xâm lăng này của Trung Quốc.
• Nhượng hàng chục ngàn cây số vuông đất cho Trung Quốc (vùng biên giới phía Bắc, trong đó có ải Nam Quan, thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm… ) và hàng trăm ngàn cây số vuông biển cho Trung Quốc (vùng biển vịnh Bắc bộ): Đảng CSVN đã lén lút ký mật ước bán đất bán biển của tổ quốc cho Trung Quốc. Người dân nào tìm cách điều tra, tìm hiểu sự thật về hành động ám muội này của đảng hoặc công bố sự thật này lên đều bị gây khó dễ hoặc bị đưa vào tù (trường hợp Lê Chí Quang, Bùi Minh Quốc… ) Việc cố tình che dấu hành động này chứng tỏ họ rất ý thức đó là một hành động phản quốc, bán nước, hại dân. Nhưng họ vẫn quyết tâm “minh tri cố phạm”.
• Cho người Trung Quốc vào Việt Nam không cần visa khiến họ có thể dễ dàng xâm nhập vào toàn cõi Việt Nam. Điều này khiến cho ngày càng có nhiều người Trung Quốc nhập cư, định cư và làm ăn sinh sống tại Việt Nam. Với vốn đầu tư và tài làm ăn của họ, dần dần họ có thể chi phối nền kinh tế Việt Nam, khiến đời sống của người dân Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Đây có thể là giai đoạn dọn đường cho việc Trung Quốc chiếm cứ Việt Nam sau này. Những người Trung Quốc ở sẵn tại Việt Nam, lúc ấy rất đông, sẽ tiếp tay cho việc chiếm cứ này. Trung Quốc đã thực hiện điều này tại Lào trong thập niên qua để đồng hoá nhân dân Lào.
• Mở những đường hoả xa từ Trung Quốc vào Việt Nam (nối Nam Ninh và Hà Nội): Những đường này chỉ có những đoàn tàu của Trung Quốc mới sử dụng được, vì khoảng cách giữa hai đường sắt song song theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, lớn hơn tiêu chuẩn của Việt Nam. Đây là cách tạo điều kiện dễ dàng cho dân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam, đem hàng hoá nhập lậu vào Việt Nam. Và đây cũng là một cách dọn đường hay chuẩn bị cho Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam: có sẵn phương tiện chuyên chở quân đội và vũ khí để vào tiếp thu Việt Nam.
• Cho Trung Quốc đưa người vào Tây Nguyên lấy cớ “khai thác Bauxite”: Tây Nguyên là một vị thế chiến lược quan trọng cần phải bảo vệ vì ai chiếm được Tây Nguyên thì cũng có thể chiếm được toàn cõi Đông Dương. Đảng CSVN cho Trung Quốc đem hàng chục ngàn người của họ vào Tây Nguyên thì chẳng khác gì một đứa con trong nhà giao chìa khoá cửa nhà cho người hàng xóm mà cả nhà đều biết người hàng xóm này lúc nào cũng muốn xông vào nhà để cướp nhà. Trung Quốc đã từng cố công chiếm Tây Tạng, một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn và ít tài nguyên. Chẳng lẽ Trung Quốc lại không chiếm Việt Nam, một nước lớn hơn và nhiều tài nguyên hơn Tây Tạng rất nhiều, khi mà đảng CSVN, kẻ đang cai trị đất nước này đã tạo nhiều điều kiện rất thuận lợi cho họ xâm chiếm đất nước mình. “Khai thác bauxite tại Tây Nguyên” chỉ là một chiêu bài để che dấu một ý đồ đen tối đằng sau. Vì việc khai thác ấy không thể thực hiện được với điều kiện quá hạn hẹp của Tây Nguyên do không đủ nước và điện để cung cấp cho sản xuất. Ý đồ đen tối ấy chính là chuẩn bị cho Trung Quốc chiếm Tây Nguyên, và dùng Tây Nguyên làm bàn đạp để chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam.
• Rất có thể còn có những mật ước khác đã ký kết nhưng chưa được tiết lộ sợ phản ứng của người dân và quân đội. Cũng như cách đây một năm, chưa ai biết được đảng CSVN đã ngầm ký kết với Trung Quốc việc cho Trung Quốc đem hàng chục ngàn người vào Tây Nguyên với danh nghĩa “khai thác bauxite”. Từ từ rồi những mật ước ấy sẽ được công khai hoá, để rồi khi người dân biết được thì đã quá muộn.
Trước thực trạng Trung Quốc xâm lược, chiếm đất chiếm biển, đảng CSVN không chỉ im tiếng không phản đối, không chống cự, mà còn tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn để Trung Quốc có thể chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam. Đã không ra tay bảo vệ tổ quốc, đảng CSVN còn dùng bạo lực, nhà tù để khủng bố, ngăn chận tất cả những người dân nào muốn biểu lộ lòng yêu nước và nỗi âu lo trước nguy cơ đất nước bị Trung Quốc xâm chiếm, cho dù bằng cách ôn hoà và hợp pháp nhất nhất là biểu tình trong trật tự. Ngay cả biểu tình một mình lặng lẽ trước cửa nhà mình như cô Phạm Thanh Nghiên cũng bị CSVN đưa vào tù.
Dã tâm bán nước của đảng CSVN đã lộ ra quá rõ ràng không còn nghi ngờ được nữa. Nếu không tìm cách ngăn chặn, nguy cơ Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai, tức thành một tỉnh của Trung Quốc, là chuyện trước mắt khó lòng tránh được.
Khi đã mất nước vào tay Trung Quốc thì mọi người Việt Nam trong nước, dù là công an hay bộ đội, là đảng viên Cộng sản hay cán bộ nhà nước, đều lâm vào tình trạng khốn khổ như nhau, không biết đến bao giờ mới thoát ra được. Gương Tây Tạng mất nước suốt 60 năm qua là một bài học không thể bỏ qua.
Trước nguy cơ mất nước trước mắt, mọi người dân trong nước, dù là đảng viên Cộng sản, dù là bộ đội hay công an, chúng ta cần xác định rõ ràng: chúng ta đang có một kẻ thù chung là tập đoàn gồm 15, 16 người của Bộ Chính Trị, là những kẻ đang tâm bán đứng quốc gia cho Trung Quốc. Và cũng phải coi là kẻ thù tất cả những ai kể từ nay sẵn sàng làm tay sai tiếp tay cho tập đoàn phản dân hại nước này để đàn áp những người yêu nước đang quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Trước nguy cơ mất nước trước mắt, mọi đảng viên Cộng sản, mọi công an bộ đội, mọi cán bộ trong guồng máy nhà nước CSVN, cần phải dứt khoát chọn lựa: hoặc đứng về phía nhân dân để cùng bảo vệ tổ quốc, hoặc đứng về phía kẻ thù là những kẻ bán nước. Xin đừng vì quyền lợi riêng, vì miếng cơm manh áo của mình mà phản bội tổ quốc, chống lại nhân dân. “Nước mất thì nhà tan”: một khi đất nước đã vào tay ngoại bang, thì tất cả những thứ mình gom góp được bấy lâu nay và cố giữ cũng sẽ chẳng còn, ngay cả mạng sống của mình cũng chưa chắc tồn tại. Nếu nước do nhân dân phục hồi và làm chủ được, thì những kẻ bán nước, phản bội cũng khó mà ngửa mặt nhìn đời.
Xin mọi người Việt trong và ngoài nước hãy ý thức nguy cơ mất nước đã đến rất gần. Hãy ra tay hành động một cách sáng suốt và can đảm.
Ngày 5/4/2009
Nguyễn Chính Kết
Tháng Tư đen! Ngọn lửa đỏ !!!
Ban Biên Tập TDNL (01.05.2009 số 74) Tiếng Nói của người dân Việt Nam đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
1- Đã 34 năm trôi qua kể từ ngày Cộng sản Quốc tế, qua tên tay sai CSVN, thôn tính được Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ sự viện trợ bằng quân trang quân dụng của Liên Xô và Đông Âu trong đại kế hoạch xích hóa toàn thế giới, nhờ sự hỗ trợ bằng chính trị của những tay phản chiến phương Tây ngây ngô khờ khạo về hiểm họa CS, nhờ sự bỏ rơi đồng minh vì những toan tính trong thế cờ chính trị hoàn vũ của Hoa Kỳ, nhờ sự trấn giữ hậu phương giùm của hơn 300.000 quân Trung Cộng đầy âm mưu xâm lược, nhờ sự nội gián của Mặt trận Giải phóng và Thành phần thứ Ba đầy ảo tưởng và ngu xuẩn, vô số sư đoàn cán binh đói cơm đói của từ miền Bắc, tự rừng núi vượt qua giới tuyến, tràn xuống đồng bằng miền Nam, để thực hiện “sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho một chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người đang âm mưu làm vua của cái nước VN khốn khổ này bằng chiêu bài Độc lập, Tự do mà ở các nước người ta đã có từ nửa thế kỷ trước vì người ta may mắn thay, đã không có đảng CS cầm quyền!” (Tô Hải, Hồi ký của một thằng hèn), để thực hiện cái gọi là “sự nghiệp giải phóng”, mạo xưng là “đoàn quân giải phóng”, huênh hoang đặt thời điểm “sau ngày giải phóng”. Và lập tức nhân dân miền Nam, thậm chí cả nước, hiểu rõ ngay ý nghĩa mỉa mai của động từ cao đẹp này.

Trước hết là “giải phóng” khỏi những tài sản vật chất. Ngoài việc chiếm lấy nhà cửa của những ai đã hoảng sợ bỏ đi, đoàn quân chiến thắng có nơi còn xông vào tư gia, chận đường lộ để đoạt những máy móc lúc ấy được cho là quý hiếm: “đài”, đồng hồ, máy ảnh… Rồi qua chiêu bài “cải tạo tư sản, cải tạo thương nghiệp”, các doanh nghiệp xí nghiệp to nhỏ ở miền Nam đều bị tước đoạt vốn liếng tài sản và chủ nhân của chúng bị đẩy đi “vùng kinh tế mới” (đúng ra là kinh tế chết); qua chiêu bài “cải tạo tư tưởng, cải tạo chính trị”, nhà cửa cơ ngơi của nhiều quân cán chính VNCH bị tống vào các trại lao động khổ sai cũng bị chiếm dụng. Đến khi người dân Việt, thậm chí Việt gốc Hoa, liều chết vượt biển vượt biên, CSVN lại lùng sục, chận bắt, lột sạch hay tổ chức “bán bãi” để thu vét vàng. Dịp những người thuộc chế độ cũ được ra nước ngoài định cư dưới các diện khác nhau cũng là cơ hội cho CS làm đầy bị bạc!

Sau thời điểm phải mở cửa kinh tế kẻo toàn thể đất nước chết chùm với nhau vì kiệt quệ (1985), CSVN lại dùng chính sách “quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế, mở khu chế xuất, mời gọi ngoại quốc đầu tư” để cướp lấy nhà cửa của thị dân, ruộng vườn của nông dân, cơ sở của giáo dân, tiền lương của công nhân… Trong số này không thiếu những cựu chiến binh, những mẹ chiến sĩ. Chưa hết, qua các dịch vụ “môi giới kết hôn với ngoại nhân”, “xuất khẩu lao động ra nước ngoài”, hàng triệu thanh niên nam nữ chẳng những phải đóng những số tiền thế chấp khổng lồ mà còn bị bóc lột sức lao động tàn tệ, biến thành lao nô tình nô bởi những tổ chức, cơ quan của CS từ trong ra tới ngoài nước. Đảng cũng không từ việc “giải phóng” túi tiền của cộng đồng hải ngoại qua mỹ từ “khúc ruột ngàn dặm”, qua lời mời đường mật “về xây dựng quê hương”, qua chính sách mỵ dân “hỗ trợ kiều bào lưu lạc”…

Nguy hiểm hơn hết, đảng đang “giải phóng” đất đai của Tổ tiên khỏi nước Việt để dâng cho lân bang phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, như một sự trả nợ chiến phí cho cuộc xâm lấn miền Nam, như một kiểu cầu cạnh để được đàn anh đảng lớn bảo vệ ngai vàng. Sau khi nhượng ải Nam Quan, thác Bản Giốc và bao cao điểm chiến lược ở biên giới phía Bắc, rồi để mặc quần đảo Hoàng Trường Sa và biển Đông rơi dễ dàng vào tay Trung Cộng, đảng lại đang mở đường cho quân xâm lược này vào giữa lòng đất nước, đến tận yết hầu, yếu huyệt của Tổ quốc là vùng Tây Nguyên, dùng vỏ bọc khai thác bauxite để chiếm lĩnh địa bàn quan trọng về mặt an ninh và chính trị này.

Thứ đến là “giải phóng” khỏi những của cải tinh thần. Sau khi chiếm được cả nước, CSVN đã sửa lại Hiến pháp hai lần (1980 rồi 1992) rồi ban hành cả hàng ngàn hàng vạn văn bản dưới luật để hoàn toàn tước bỏ mọi nhân quyền và dân quyền, đặt mọi lực lượng của xã hội vào tay đảng: từ quốc hội, chính quyền đến tòa án, từ công an tới quân đội, từ báo chí đến tôn giáo (quốc doanh). Đảng “giải phóng” trí tuệ và tâm hồn nhân dân bằng nền giáo dục độc quyền, nhồi sọ, ngu dân, phi nhân bản, phản dân tộc; bằng cả hệ thống thông tin một chiều, lèo lái, dối trá, đầu độc dư luận. Toàn dân đều được ăn bánh vẽ “tự do”, “dân chủ”, đều được dạy dỗ để tin vào “đạo đức của bác Hồ”, “sự ưu việt của xã hội chủ nghĩa”, vào “một tương lai xán lạn dưới sự cai trị của đảng”; đều được nhắc bảo “cứ chăm chỉ làm ăn, chớ động đến chính trị, tránh nói xấu nhà nước, đừng theo quan niệm nhân quyền Tây phương, hãy để đảng lo mọi vấn đề của quốc gia dân tộc”….

Những ai từng thuộc chế độ miền Nam, đã nếm qua phần nào tự do dân chủ, thì được đảng đem vào “trại cải tạo” để “giáo dục thành con người mới XHCN”, khiến bao ý chí sống hùng bị kiệt quệ, bao tài năng xây dựng bị thui chột. Đến khi họ ra khỏi tù thì đảng tìm cách tống khứ khỏi nước để trừ hậu hoạn. Những ai mon men đòi quyền lợi, công bằng như nông dân bị lấy đất, công nhân bị xén lương, tôn giáo bị cướp cơ sở thì được đảng đi từ hứa hẹn tháng năm dài tới hăm dọa đủ cách kiểu, có lúc còn chơi trò mỵ dân “hãy hy sinh vì công ích, quốc lợi”. Những ai quyết tâm đòi mọi quyền tự do, dân chủ cho đồng bào, can đảm vạch trần những sai lầm và tội ác của chế độ, thành tâm góp ý xây dựng quê hương đất nước thì bị đảng trấn áp bằng sách nhiễu, hăm dọa, gây khốn cho gia đình, tiếp đến là quản chế, giam cầm và nếu cần thì sát hại.

Từ lâu, để “giải phóng” tinh thần dân tộc khỏi tính Việt để theo tính Tàu, như ý đồ của Trung cộng, Việt cộng đã cho văn hóa Tàu tràn ngập đất nước, đặc biệt trên các phương tiện truyền thông. Quần chúng nhân dân, nhất là giới trẻ, nay biết lịch sử và văn minh của Tàu hơn là của Việt, khiến thi sĩ Bùi Chí Vinh mới đây phải than: “Chào một ngày giống hệt mọi ngày. Sóng truyền hình phủ toàn phim TQ… Hết “Triều đại Mãn Thanh” đến “Đại Tống truyền kỳ”… Đọc báo thấy cha ông mất hút. Thấy thiên hạ quỳ mọp dưới tượng đài Binh pháp Mặc Công, Ngọa hổ Tàng long, Họa Bì, Xích Bích… Con nít thuộc lòng Hoắc Nguyên Giáp, Hoàng Phi Hồng… hơn thuộc sử Tiên Rồng. Chào một ngày đất nước tự lưu vong. Cội rễ văn hiến 4000 năm trốc gốc. Tuổi teen gối đầu giường Lý An, Ngô Vũ Sâm, Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca lạ hoắc. Panô giăng khắp nơi hình ảnh Chương Tử Di, Thành Long, Củng Lợi…”. Đỉnh cao của ý đồ Hán hóa tinh thần này là việc CSVN cho thành lập Học viện Khổng Tử (qua Công văn số 1992/VPCP-QHQT ngày 03-04-2009). Việc này khiến luật sư Đỗ Thái Nhiên đã lên tiếng báo động (qua bài “34 năm sau “giải phóng””): “Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết học… Nó bao gồm những bài học rời rạc mà khi đi vào thực tiễn đời sống dân TQ, người ta nhìn ra ba trọng điểm: - Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao, vợ con chỉ là những kẻ phải tuyệt đối tuân lệnh. - Trong xã hội quốc gia: Vua là tối thượng, nắm quyền sinh sát toàn dân. - Trong bang giao quốc tế: TQ là nước vua, những nước chung quanh chỉ là tôi thuộc, TQ có toàn quyền tùy nghi bành trướng. Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của TQ trên căn bản tư tưởng rằng: TQ là nước vua, VN là nước tôi! Không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho TQ trong nỗ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” Tính Việt và Tình Việt ra khỏi con người VN, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường, chấp nhận thân phận hèn mọn trước TQ vĩ đại”.

Quả thật, đất nước đã lâm vào vận đen, lịch sử đen từ Tháng Tư đen năm ấy. Và xem ra do lòng dạ, ý thức vô gia đình, vô tổ quốc đầy tối đen của Việt cộng, một Tháng Tư đen mới sẽ thành hình, mà lần này thì mất nước vào tay Trung cộng. Tương lai dân Việt sẽ còn đen tối hơn nữa !!!.

2- Bên cạnh màu đen u tối đó, người ta lại xuất hiện thêm một màu cũng đáng sợ không kém là màu đỏ. Màu của bùn đỏ, bụi đỏ vô cùng độc hại phát xuất từ việc khai thác bauxite. Theo các nhà khoa học, bùn đỏ này (một quả bom 20 triệu tấn treo trên nóc nhà nước Việt) sẽ hủy hoại bề mặt của đất và các mạch nước ngầm, gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường, khiến không có loài sinh vật nào sống được. Trung Quốc chẳng có thể dùng quả bom vĩ đại đó để đe dọa chúng ta sau khi chúng đã khai thác và chiếm lĩnh vùng Tây Nguyên sao? Còn bụi đỏ (vốn không chỉ nằm trong nơi khai thác mà sẽ chiếm lĩnh toàn vùng kể cả khu dân cư và khu nông nghiệp) sẽ bám trên lá cây trồng trọt, khiến cây không thể phát triển; nó cũng đi qua khí quản vào phổi và sau một thời gian dài thì người bị nhiễm sẽ đi đến ung thư phổi. Đây là những tai họa khác đang rình chờ người dân Việt Nam chúng ta tất cả. Tai họa đỏ đó hiển nhiên phát xuất từ quân xâm lược đỏ và tay sai đỏ của chúng.

Tuy vậy, cũng không thể không nói đến một màu đỏ hy vọng, đó là ngọn lửa đỏ mà toàn dân đã và đang nhen lên từ cả thập niên nay, khi khởi đầu thế kỷ 21. Ngọn lửa đó do các nhà tranh đấu dân chủ, các đoàn lũ dân oan, các cộng đồng tôn giáo, các tập thể công nhân đã đốt lên từ trái tim đầy phẫn uất trước bất công, đầy tha thiết với lẽ phải, đầy thổn thức trước vận mệnh suy đồi của Dân tộc. Ngọn lửa đó đã nhen lên trước văn phòng 2 Quốc hội, tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng, bên cạnh tòa Khâm sứ, trong Linh địa Thái Hà, từ Thanh Minh Thiền viện, nơi cây cầu vượt ở Hải Phòng, giữa phiên tòa bịt miệng tại Huế, tận đáy phòng giam các chiến sĩ dân chủ. Ngọn lửa đó đang bùng cháy trên trang mạng Bauxite Việt Nam và sẽ bốc mạnh khắp cả nước trong tháng 5 Bất tuân dân sự-biểu tình tại gia này, để như nhà thơ Hà Sĩ Phu nói, “Hồn dân tộc Triệu Trưng về đốt lửa, thiêu lũ hèn Chiêu Thống cháy ra ma”.
Những bài học đích đáng
tại Genève !!!
Ban Biên Tập TDNL (15.05.2009 số 75) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Khi quyết định thành lập Hội đồng Nhân quyền vào năm 2006, Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc cũng đồng thời thiết lập một cơ chế mang tên Kiểm điểm Định kỳ Phổ cập (Universal Periodic Review, gọi tắt là UPR), để duyệt xét việc thực hiện nhân quyền của toàn bộ các nước thành viên 4 năm một lần. Cuộc kiểm điểm tiên khởi đã bắt đầu từ tháng 04-2008 và theo lịch trình VN sẽ trình bày báo cáo của mình vào ngày 8-5-2009 tại trụ sở Hội đồng Nhân quyền ở Genève, Thụy Sĩ.
1- Ngay trước ngày Việt Nam phải trình bày tình hình nhân quyền trong nước với Hội đồng này thì nhiều “tin dữ” ập tới dồn dập. Chẳng hạn hôm 30-4, Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo (CPJ) đã công bố danh sách 10 quốc gia mà tổ chức này cho là “khó khăn nhất đối với các blogger”, trong đó có Việt Nam. Hồi tháng 3, Tổ chức Phóng viên không Biên giới (RSF) cũng đã đưa ra danh sách 12 quốc gia “thù nghịch với internet”, VN có trong đó. Đến ngày 01-05, Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ tái đề nghị đưa VN trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) về vi phạm tự do tôn giáo. Đến ngày 04-05, trong bản phúc trình tựa đề "Vẫn chưa phải là thiên đường cho công nhân", Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) đã nêu ra những vụ đàn áp của nhà cầm quyền VN đối với các công đoàn độc lập cũng các chiến sĩ hoạt động cho quyền lợi của công nhân.
Những lời cảnh báo đó của thế giới đã vạch trần bộ mặt gian trá của “Báo cáo Quốc gia Kiểm điểm Định kỳ việc Thực hiện Quyền Con người ở VN” (một bản văn dài 22 trang, phân thành 89 số, được Bộ Ngoại giao soạn thảo với sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước và công bố hôm 23 tháng 3). Nó nhanh chóng gặp phải sự chỉ trích của đồng bào khắp nơi lẫn thân hữu quốc tế vì chứa vô số điều xuyên tạc sự thật và phản ánh những cách suy nghĩ lẫn hành động lỗi thời, không phù hợp với những nguyên tắc nhân quyền phổ quát của thế giới văn minh dân chủ hiện đại.
Trước hết, tất cả những gì gọi là các Quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa (các số 17-38) -trình bày qua hàng loạt con số thống kê mà không ai có thể truy nguyên kiểm chứng và qua vô số bộ luật mà không ai có thể xác minh hiện thực- đều bị thể chế độc đảng toàn trị biến thành bánh vẽ hoàn toàn. Bánh vẽ này lại càng to hơn khi nhét vào miệng các “nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, dân tộc thiểu số, người khuyết tật”, x. các số 39-56). Ai chẳng biết đó là những thành phần tiếp tục bị thiệt thòi nhất, tổn thương nhất do lối quản lý xã hội kiểu tham lam, ngu dốt và coi khinh con người của CS. Tiếp đến, báo cáo của Hà Nội -với giọng lưỡi gỗ như mọi lần- kết nối nhân quyền với việc giành độc lập cho đất nước, còn gọi đó là “những thành tựu dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất mà nhân dân VN đã giành được” (số 60). Thật ra, đây là hai vấn đề riêng biệt, và không nhất thiết là nhân quyền của người dân sẽ được bảo vệ sau khi đất nước giành được độc lập. Lối lập luận thứ hai thường thấy là Hà Nội tiếp tục cho rằng “việc thực hiện quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước…. với các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực” (x. số 61). Kiểu “nhân quyền bản địa” này chỉ là lối ngụy biện nhằm bênh vực cho thói hành xử độc tài đảng trị và triệt tiêu tự do dân chủ lâu nay tại VN.
Tiếp đến, như Giáo sư Võ Văn Ái nhận xét: “Báo cáo này cho một danh sách rất nhiều về vấn đề luật pháp và xem như rằng khi có càng nhiều luật chừng nào thì việc tôn trọng nhân quyền càng nhiều chừng đó. Tuy nhiên Hà Nội không hề cho người đọc thấy cụ thể những luật pháp đó đã được áp dụng như thế nào trong việc bảo vệ quyền của công dân tại VN; và xem như nhà nước VN tôn trọng nhân quyền vì đã có những cuộc đối thoại với Hoa Kỳ, với Liên hiệp châu Âu”. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Giám đốc Viện Quốc tế cho VN ở Virginia, Hoa Kỳ, thì cho rằng “Bản kiểm điểm này lẫn lộn giữa thành tích phát triển với thành tích nhân quyền và dân quyền. Hà Nội kể ra thành tích về giáo dục, y tế, phụ nữ v.v… nhưng đó là những thành tích về phát triển. Thành tích phát triển không nhất thiết bảo đảm sự tôn trọng nhân quyền và dân quyền”. Ngoài ra, “Báo cáo của VN cho biết họ muốn thay đổi rất nhiều luật pháp nhưng thay đổi luật pháp không có nghĩa luật pháp được nhà cầm quyền tôn trọng. Tức là nhà cầm quyền có thể sử dụng luật pháp để vi phạm nhân quyền… dùng luật pháp để cai trị bạo ngược. Cái đó gọi là pháp quyền (rule by law). Một chế độ pháp trị (rule of law) thì hoàn toàn khác! … Luật pháp phải cai trị cả nhà cầm quyền thì lúc đó mới thật sự tôn trọng luật pháp và mới có căn bản để nhân quyền được tôn trọng. Ở VN chưa có pháp trị (rule of law), mà chỉ có pháp quyền (rule by law) thôi. Thực chất vấn đề VN hiện nay là nhà cầm quyền không thật sự do nhân dân cử ra và phục vụ cho nhân dân mà là do Đảng Cộng Sản cử ra và phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cầm quyền”. (x. Ðài Tiếng nói Hoa Kỳ, 04-05-2009)
2- Đến ngày 08-05-2009, phái đoàn Hà Nội gồm 29 người đã đến phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ tại Genève về tình trạng nhân quyền VN cùng sự tuân thủ các Công ước quốc tế LHQ về nhân quyền mà VN đã ký kết. Dàn chào họ trước hết tại quảng trường trước tòa nhà là gần 2000 đồng bào VN từ khắp nơi trên thế giới (trong đó có 400 đồng bào Khmer Krom) với cả rừng cờ vàng biểu ngữ, với nhiều nghi thức cầu nguyện tưởng niệm, với những khẩu hiệu tung hô đả đảo, những ca khúc cổ xúy nhân quyền. Tiếp đến, báo chí quốc tế cũng dàn chào CSVN với những hàng tít lớn đầy màu sắc cáo trạng: Anh tấn xã Reuters viết “VN bị tố cáo đàn áp nhân quyền trước khi đến phúc trình ở LHQ”, Pháp tấn xã AFP viết “Nhân quyền : VN bị tố cáo trước LHQ dù được các nước liên minh hậu thuẫn”, Nhật báo Phố Wall của Hoa Kỳ (2 triệu số mỗi ngày) viết bài xã luận “Những sai lầm về Nhân quyền của Hà Nội”. Trước đó không lâu là bản Phúc trình “Nhân quyền tại CHXHCNVN” do Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người VN đệ nạp chung với Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền từ tháng 11-2008 theo thủ tục. Phúc trình này đã được Hội đồng Nhân quyền đưa lên Trang nhà LHQ và làm tài liệu cơ bản cho cuộc chất vấn về những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của VN. Đồng thời còn có những Phúc trình tố cáo Hà Nội của 12 tổ chức Phi chính phủ quốc tế lớn như Ân xá Quốc tế, Theo dõi Nhân quyền, Liên đới Toàn cầu Kitô hữu v.v… nhất là Phúc trình của Cao ủy Nhân quyền LHQ thu thập các tài liệu tố cáo VNCS. Đặc biệt dàn chào phái đoàn Hà Nội trong chính hội trường là 75 quốc gia ghi danh phát biểu mà đa phần thuộc thế giới dân chủ văn minh.
Thoạt tiên, các quốc gia gọi là “Trục Cực Quyền” (Axis of Sovereignty), gồm khoảng 19 nước độc tài (mà VN đã xin xỏ đăng ký sớm), ra sức bao che, hỗ trợ cho Hà Nội. Nhóm “ngưu tầm ngưu mã tầm mã” này đã lên tiếng khen tặng VN qua phát biểu của Miến Điện, Ai Cập, Nga, Lào, Cuba, Sudan, Syria, Lybia. Một số nước khác như Ấn Độ, Sri Lanka, Algérie thì khen quan điểm nhân quyền của VN thể hiện qua cuộc tranh đấu giành độc lập dân tộc, tức quan điểm phản động về nhân quyền không có con người.
Trái lại các quốc gia dân chủ thì quan ngại về vấn đề thiếu vắng nhân quyền và tự do tại VN, nên đã chất vấn hoặc khuyến cáo trên các lĩnh vực sau. Trên lĩnh vực tự do tôn giáo, có phái đoàn Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Ba Lan, Hungary, Liban, Anh Quốc v.v… Ý và Tân Tây Lan đề xuất Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm Tự do tôn giáo phải đi VN điều tra sự việc. Cộng hòa Liên bang Đức nêu cao vai trò trọng yếu của các tôn giáo tại VN. Hoa Kỳ yêu cầu đẩy nhanh tiến trình đăng ký của các Giáo hội, yêu cầu phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho PGVNTN cũng như cho các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài. Trên lĩnh vực tự do báo chí thì có sự quan tâm của Na Uy, Thụy Sĩ, Phần Lan, Thụy Điển, Canada, Hòa Lan, Úc Đại Lợi, Anh Quốc, Đức, Hoa Kỳ v.v… Các khuyến cáo đưa ra là : yêu cầu luật báo chí VN phải được xét lại cho tương hợp với Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của LHQ, yêu cầu công nhận tự do ngôn luận và bãi bỏ những hạn chế tự do báo chí. Phần Lan đề nghị gửi Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm Tự do ngôn luận đến VN điều tra. Trên lĩnh vực tự do chính trị, các quốc gia quan ngại lo âu về những điều khoản “an ninh quốc gia” trong bộ Luật Hình sự. Phái đoàn Canada tuyên bố : “Nhiều khi luật pháp tại VN dùng để kết tội những ai biểu tỏ ôn hòa các quan điểm chính trị, đồng thời hạn chế tự do lập hội.” Phái đoàn Hoa Kỳ yêu cầu VN hủy bỏ các điều khoản mơ hồ về “an ninh quốc gia” như điều 88 về “tội tuyên truyền chống Nhà nước”, điều 258 về “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước”. Hoa Kỳ còn nêu đích danh và đòi hỏi trả tự do cho các tù nhân lương tâm như Lm Nguyễn Văn Lý, hai Ls Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân. Phái đoàn Ba Lan khuyến cáo VN hủy bỏ Pháp lệnh 44 về quản chế hành chính cho phép giam giữ 2 năm tại các trại tạm giam, quản thúc tại gia, hay đưa vào nhà thương điên mà không thông qua sự xét xử của tòa án.
Nói tóm lại, trong lần xuất hiện đầu tiên trước Diễn đàn Nhân quyền vĩ đại này, CSVN quả đã học được nhiều bài học trong cay đắng và tủi nhục. Cay đắng và tủi nhục vì đã bị hầu như cả thế giới vạch trần những dối trá trong thông tin, những ngụy biện trong lý luận, những lỗi thời trong quan niệm và những ngu xuẩn trong mưu đồ lường gạt quốc dân và thế giới. Và phải nói sự ngu xuẩn lớn nhất chính là CS quên rằng không tôn trọng nhân quyền sẽ mất luôn chủ quyền quốc gia dân tộc. Thực tế cho thấy: do quyết tâm duy trì chế độ độc tài đảng trị, tiêu diệt nhân quyền, CSVN không có dân để dựa vào không thể dựa vào dân, nên chỉ biết dựa vào các thế lực quốc tế để tồn tại. Trước đây, nó đã ngoan ngoãn nằm trong hệ thống cộng sản của đàn anh Liên xô, nay thì bị Đế quốc Đại Hán khống chế triệt để. Bài học này, liệu CSVN có chịu thuộc không?




Đảng CSVN sợ hai từ ''Nhân Quyền''
Trong từ điển của chế độ độc tài CSVN không có từ “Nhân Quyền”. Tuy nhiên, từ khi buộc phải mở cửa ra với thế giới văn minh để kéo dài sự sống còn của mình thì ĐCSVN luôn phải đối mặt với hai từ “Nhân Quyền”. Nhưng, mỗi khi nhắc đến từ “Nhân Quyền” thì chế độ CSVN lại giẫy nảy lên như “đỉa phải vôi”, như đi vào chỗ chết, đi vào con đường tự sát. Vậy tại sao ĐCSVN lại sợ hai từ “Nhân Quyền” như vậy?

Theo một cái nhìn chung thì Nhân quyền được hiểu một cách ngắn gọn đó là quyền được làm người. Đã làm người thì họ có quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc. Trong tuyên ngôn độc lập của Hoa kỳ có viết: "Chúng tôi coi những chân lý sau đây là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có Quyền được sống, Quyền tự do và Quyền mưu cầu hạnh phúc…".

Những quyền này được cụ thể hóa trong công ước quốc tế về nhân quyền mà CSVN đã ký kết thực thi, gồm những quyền sau:

Các quyền thuộc lĩnh vực dân sự và chính trị gồm có:

1) Quyền được sống và không bị tước đoạt sinh mạng một cách độc đoán.
2) Quyền có an ninh cá nhân, không bị bắt giữ vô cớ hay bị bỏ tù mà không xét xử công minh.
3) Quyền không bị đối xử độc ác và không bị tra tấn kể cả khi bị bỏ tù.
4) Quyền bình đẳng trước pháp luật và không bị áp dụng phép hồi tố bất lợi.
5) Quyền tự do cư trú và đi lại.
6) Quyền sở hữu tài sản.
7) Quyền bất khả xâm phạm đối với đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín.
8) Quyền được bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm.
9) Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
10) Quyền tự do lập hội và hội họp.
11) Quyền được khiếu nại, tố cáo bất cứ cá nhân, tổ chức nào.
12) Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
13) Quyền tự do biểu tình.
14) Quyền được tham gia quản lý xã hội (bầu cử, ứng cử...).

Các quyền thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa gồm có:

1) Quyền có việc làm và được hưởng thụ thỏa đáng.
2) Quyền được chăm sóc về y tế.
3) Quyền được hưởng nền giáo dục, trước hết là giáo dục tiểu học miễn phí.
4) Quyền được có nơi cư trú.
5) Quyền được sống đủ cho bản thân và gia đình.
6) Quyền được sống trong môi trường không ô nhiễm, độc hại

v.v... (xem http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1228)

Quyền của con người đã được Tạo hóa ban cho, giống như Tạo hóa ban cho mỗi người có chân, có tay, có đầu, có quả tim, và khối óc v.v. Như vậy, đây là quyền phổ quát, cho dù bạn sống ở đâu, ở thời đại nào, thể chế nào, thì minh nhiên bạn vẫn có các quyền đó. Tuyên Ngôn Vienna và chương trình hành động tháng 6-1993 cũng đã khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau. Cộng đồng quốc tế phải xử lý các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng và bình đẳng và được coi trọng như nhau”.

Thế nhưng, ĐCSVN đã dùng toàn bộ bạo lực, thủ đoạn để cướp đi quyền làm người của người dân Việt Nam. ĐCSVN đã rất xảo quyệt diễn giải nhân quyền theo cách của họ và quy kết vào quyền công dân. Điều 50, Hiến pháp Việt Nam 1992 ghi "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật". Mà Hiến pháp và Luật lại do chính ĐCSVN làm ra để phục vụ cho sự thống trị và hành vi cướp bóc của đảng. Hơn nữa, Hiến pháp và Luật được lập ra cũng chỉ để nói với thế giới rằng ĐCSVN cũng có Hiến pháp và Luật lệ như các nước khác. Thực tế thì ĐCSVN là những người ngồi xổm trên luật pháp do chính chúng đặt ra và cai trị nhân dân bằng các nghị định, nghị quyết, và thông tư v.v., giống như một tổ chức Mafia vậy. Những ai phụng sự và trung thành với ĐCSVN thì được coi là nhân dân, còn những ai mới chỉ có ý kiến trái với Đảng và Nhà nước, thì tức khắc được quy kết chụp mũ là thành phần phản động.

Sau 64 năm (miền Bắc VN) và 34 năm (miền Nam VN) sống trong sự sợ hãi, bị tù đày trong nhà tù CS và bị sỏ mũi bởi các thủ đoạn và bộ máy tuyên truyền một chiều của ĐCSVN, nhiều người dân Việt Nam đã đánh mất ý thức hoặc mù mờ về nhân quyền của chính mình. Người dân sống dưới chế độ CSVN chỉ có “thú” quyền chứ không có nhân quyền, và có khi phải sống trong điều kiện không được bằng con thú. Con trâu con ngựa khi bị đói, bị rét, bị chủ đánh chúng còn được kêu rên. Nhưng những người dân sống dưới chế độ CSVN thì không được như vậy; người ta chẳng những không được kêu rên, mà còn phải nói ngược lại là đàng khác: sống trong một xã hội bị thống trị bởi một tập đoàn tham nhũng, cướp bóc và man trá mà vẫn phải nói là “CHXHCN”; bị phụ thuộc mà vẫn phải nói là “độc lập”; những quyền cơ bản nhất của con người bị tước đoạt mà vẫn phải nói là “tự do”; bị lầm than, đàn áp, bất hạnh, đói khổ mà vẫn phải nói là “hạnh phúc”; sống trong địa ngục trần gian xã hội chủ nghĩa mà vẫn phải nói là “thiên đường XHCN”; biết ĐCSVN là mối nhục và sắp đến ngày tận số mà vẫn phải nói “ĐCSVN quang vinh muôn năm” v.v.

Khi quyền được nói của người dân bị tước đoạt và với hơn “700 cơ quan báo chí in, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất, 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản” (theo báo cáo Nhân quyền của VN tại Hội đồng LHQ tại Geneva, Thụy Sỹ, 08/05/2009), thì ĐCSVN muốn nói gì thì nói, muốn ngậm máu phun ai thì phun. Đảng bảo rằng đài báo do Đảng kiểm soát là cơ quan ngôn luận của nhân dân, nhưng ai cũng biết đấy là nơi tập hợp những kẻ bồi bút của Đảng mà chẳng ai dám nói ngược! Đảng bảo dân yêu Đảng, thực tế ai cũng căm thù Đảng, nhưng không ai dám nói ra điều đó! Đảng bảo Đảng là “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng ai cũng biết đỉnh cao trí tuệ ấy được tập hợp từ những “hũ đậu”, những kẻ du đảng du đãng, những kẻ bồi bếp, đồ tể v.v. và từ những học thuyết quái thai dị dạng chắp vá mà ra…, thế nhưng không ai dám nói ra điều đó! Đảng bảo Đảng là kim chỉ nam đang dẫn người dân đến “bến bờ hy vọng”, nhưng ai cũng biết kim chỉ nam này đã và đang chỉ cho người dân con đường đi xuống địa ngục, thế mà cũng không ai dám phản ứng! Đảng bảo ĐCSTQ là bạn, là đồng chí lớn, còn người dân ai cũng biết Trung Cộng là giặc truyền kiếp và là kẻ đang cướp đất, cướp biển, cướp đảo của ta, nhưng không ai được phép nói như vậy, nếu cố tình nói thì bị đàn áp và bỏ tù ngay lập tức (các sinh viên biểu tình trước nạn giặc Tàu cướp biển, cướp đảo đã bị công an CSVN đàn áp (http://hoangsa.org/forum/archive/index.php/t-2882.html) , Nhà báo tự do Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải bị cầm tù (http://clbnbtd.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=448) , Báo Du Lịch mới chỉ đi ra sát mép “lề phải” khi đề cập đến chủ quyền Hoàng sa và Trường sa của VN đã bị đình bản ngay lập tức (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/04/090415_baodulich.shtml) …) v.v.

Cộng sản rất tự mãn về những thành tích vừa nêu. Tuy nhiên, khi thành trì cộng sản ở Liên xô và Đông âu bị sụp đổ, học thuyết cộng sản bị bỏ vào sọt rác lịch sử tại chính cái nơi nó được sinh ra, thì ĐCSVN lại cuống cuồng lo cho ngày tận số của mình. Để kéo dài sự tồn vong, dù chỉ là một sự thoi thóp, không còn sự lựa chọn nào khác, ĐCSVN đành phải mở cửa ra với thế giới văn minh bên ngoài.

Bắt tay với thế giới văn minh, thì phải theo luật chơi văn minh, không thể đưa cách chơi mọi rợ của mình ra mà chơi được, ĐCSVN buộc phải thay đổi cho phù hợp với tình thế mới. ĐCSVN buộc phải dần dần nới lỏng cho người dân. Nhưng lại kể công, bịp bợm nhân dân rằng, ĐCSVN đã tài tình sáng suốt đổi mới, nên nhân dân mới có được như ngày hôm nay, bắt nhân dân một lần nữa chịu ơn mình. Dưới áp lực của quốc tế, ĐCSVN buộc phải nới lỏng hoặc trả lại một số quyền cho người dân, thì ĐCSVN lại nói rằng họ cho hoặc ban ơn, người dân phải chịu ơn Đảng và Nhà nước. Trước cộng đồng quốc tế thì ĐCSVN có thái độ như là một kẻ ăn mày, một kẻ tội đồ cần sự bố thí và khoan dung của cộng đồng quốc tế; còn đối với người dân của mình thì ĐCSVN lại tỏ thái độ trịch thượng như là một kẻ ban ơn. Gần đây nhất, trước Hội đồng nhân quyền LHQ ngày 08/05/2009, chính quyền Việt Nam đã phải cúc cung hứa hẹn cải thiện, và sửa đổi này nọ giống như một đứa con nít phạm tội bị người lớn bắt quả tang.

Từ trước đến nay, ĐCSVN đã luôn tuyên truyền và nhồi sọ bắt người dân phải tin rằng ĐCSVN là đảng của dân, vì dân và do dân... Cái mặt nạ hằng ngày được bôi vôi trát phấn như nấm mồ được quét vôi này, khi được đào bới ra nó sẽ kinh khủng thối tha vô cùng. Lớp vỏ nhân nghĩa được đánh bóng từ khi ĐCSVN hình thành đến nay, khi nó được bóc ra, nó sẽ hiện nguyên hình tội ác, cũng như bản chất cướp bóc, bịt bợm, thối tha, đê hèn và sự phản bội nhân dân cũng như tổ quốc của chúng. Đây cũng là lý do tại sao ĐCSVN sợ sự thật. Sự thật không những phơi bày tội ác của ĐCSVN mà còn giải thoát con người, giải thoát người dân khỏi ách cộng sản.

Để kéo dài sự thoi thóp của mình, ĐCSVN luôn tìm cách bưng bít thông tin, kiểm soát báo chí, blogs và internet, thủ tiêu, khử trừ và bịt mồm những ai manh nha đòi quyền làm người, đòi chân lý. Những người mà trước mắt chúng không thể bỏ tù hay thủ tiêu được thì chúng huy động hệ thống báo chí đánh hội đồng, dùng cả du đảng du đãng mà ĐCSVN gọi là “quần chúng tự phát” để uy hiếp, và tìm cách quy kết cho đủ mọi tội kể cả tội phản bội tổ quốc chống lại nhân dân. Điển hình gần đây nhất là Đức TGM Ngô Quang Kiệt. Khi ngài công khai “đòi” chứ không “xin” quyền của con người: “cái tôn giáo là cái quyền tự nhiên con người được hưởng. Và nhà nước vì dân cho dân phải có trách nhiệm tạo cái điều đó cho người dân chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ “xin cho” , thì CSVN đã dùng toàn bộ thủ đoạn để quy kết tội ngài, thậm chí dùng cả cách bì ổi nhất đó là cắt xén lời nói của ngài để vu cáo.

Tuy nhiên, các thủ đoạn và bạo lực xưa vốn đã được ĐCSVN dùng rất hiệu quả, thì nay không còn tác dụng nữa. “Tiếp theo sau đức Tổng Kiệt không chịu đi xin ơn, nhưng nhất quyết đi đòi quyền, đến lượt đức cha Tân không muốn câm, nay đức cha Khảm không muốn mù, đức cha Bản không muốn què, cương quyết “bước đi trong Thần Khí” có vẻ như từ lòng Giáo Hội Việt Nam đang bừng lên một khí thế mới, dưới sự thúc đẩy của Thần Khí: “Dậy mà đi!” (LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm)

Phong trào cầu nguyện đòi quyền làm người ngày càng lan rộng và lớn mạnh. Càng ngày càng nhiều người dân ý thức được quyền làm người của mình. Chắc chắn là có một ngày gần đây, sẽ có một cuộc lên đường lớn của tất cả những người dân đã bị ĐCSVN tước đoạt quyền làm người bấy lâu nay. Và nếu điều ấy xảy ra thật thì đây cũng là ngày tận số của ĐCSVN. ĐCSVN đang rất vô cùng hoảng sợ trước dự đoán này.
Trần Công Luận

Bất Nhân, Gian Manh, Xảo Trá

Không tôi là kẻ phàm phu,
Cái tôi lấn át làm ngu muội mình.

Chế độ xã hội ở Việt Nam ngày nay càng tồn tại lâu, và người ta càng sống lâu, người ta càng tiếp tục chứng kiến CSVN làm nhiều hành động thể hiện tính ngu muội, cố chấp, vá víu, “đánh bùn sang ao”, phản lại tiến bộ chính đáng của con người và xã hội:

Trong khi khối Liên Xô và Đông Âu đã biết mở mắt khước từ chủ nghĩa Cộng Sản, sau 70 năm khống chế, thì Đảng Cộng sản Việt Nam nằm trong vòng ảnh hưởng Trung quốc, vẫn bảo thủ một chủ nghĩa lỗi thời và từ đó ngăn chặn công cuộc dân chủ hóa và đổi mới ở các lãnh vực khác.

Người ta lầm tưởng là kinh tế quyết định mọi sự, nhưng thực sự mọi cuộc đổi mới kinh tế phải đi liền với mọi mặt cải cách xã hội chính trị. Nếu có tiến bộ kinh tế mà không có điều chính đồng bộ uyển chuyển về các mặt khác của xã hội, thì xã hội sẽ đi đến bế tắc. Chuyên chế độc tài toàn trị đơn nguyên là nguyên nhân cơ bản của mọi nguyên nhân.

Ta thử lược qua mấy mặt của xã hội Việt Nam ngày nay. Ngoại trừ một số tiến bộ cũ thể do đ1ong góp của các thành phần khác trong xã hội, người ta thấy những

Học Tập Cải Tạo

Sai lầm trong chính sách cơ bản là biến đổi công việc học tập cải tạo chính trị ngắn hạn và chính đáng cần thiết cho dân, quân, cán chính VNCH thành một hành động hận thù, bất nhân, tàn bạo kéo dài của VNDCCH. Từ tàn bạo và dối trá đó, CSVN đã kích động thêm hận thù - như đâm lao thì phải theo lao - thay vì ccần ủng có tính nhân bản và tình đoàn kết toàn dân hai miền đã từ lâu vào cảnh đau khổ triền miền vì chiến tranh.

Chính sách sai lầm đó đã dẫn đến cuộc vượt biên đau khổ, nhục nhã và bất đắc dĩ sang các nước của biết bao nhiêu người VN dưới nhiều hình thức: ODP, HO, PIP… Cộng đồng người Việt hải ngoại đã một thời gian lâu dài bị coi là phản động. Lúc tình hình VN thay đổi, thì Việt kiều lại được coi là người yêu nước, là khúc ruột ngàn dặm, khi họ gửi tiền và đem tài ba về giúp nước.

Những biến đỗi vũ bão và những tiết lộ sau đó về thực chất chế độ CS ở Liên Xô và Đông Âu từ chung quanh năm 1990 vẫn không mở mắt những người CSVN, dù người CSVN đã xây dựng chế độ được 15 năm.

Sợ “Diễn Biến Hòa Bình”: Cảnh Giác Không Đúng Chỗ

Khi cộng đồng hải ngoại tiếp xúc với các luồng tiến bộ khác nhau trên thế giới và chia sẻ những quan sát và hiều biết đó cho những người ở trong nước, thì chính Đảng Cộng sản muốn ngăn chặn tiến bộ, che mắt dân trong nuớc để lừqa dối dân chúng, củng cố chế độ bằng khóm từ chống “diễn biến hòa bình”. Sợ diễn biến hòa bình có nghĩa là bịt mắt sợ ma tiến bộ!

Ngoại Giao Bị Bao Vây Và Phân Hóa

Vì bị cộng đồng thế giới cô lập từ 1975 đến 1990, đúng vào thời điểm chế độ Cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu tan rã, cộng đồng hải ngoại Việt Nam dần dần hính thành, thì nền ngoại giao của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hầu như bị tê liệt.

Nhân viên ngoại giao chỉ còn thực sự hoạt động ở một số nước nghèo đói ở Phi Châu và mấy nước còn thuộc chế độ cộng sản Liên Xô. Nhiều người làm ngành ngoại thiếu tư cách như buôn lậu á phiện Úc châu, Canada…) , ngà voi, sừng tê ({Phi châu..), xuất khẩu lao động (Mã Lai,…), phụ nữ trai gái vị thành niên (Cam Pu Chea, Trung quốc, Hàn quốc, Đại Loan,…), trồng cần sa (Anh quốc, Mỹ, Canada,…) lấy tiền, bài bạc, và buôn lậu đồ la, ăn cắp mỹ phẩm (Nhật Bản, …). Người Việt Nam trong cộng đồng tiến bộ thế giới làm sao còn hãnh diện về quốc gia của mình!

Ở các nước tiền tiến Tây Phương, hoạt động ngoại giao của Việt Nam ngày nay đồng nghĩa với làm tình báo gián điệp trong cộng đồng người Việt hải ngoại và vận động tài chánh cho đất nước!

Giáo Dục Cải Cách Lòng Vòng

Giáo dục là chìa khóa đầu tiên để đào tạo con người, xây dựng xã hội mới về kiến thức và tư cách đạo đức Nhưng chế độ chuyên chế độc tài toàn trị kiểu mafia đã không cho phép cải cách giáo dục triệt để. Biết bao sáng kiến đề nghị cải cách giáo dục không có kết quả vì người ta lẩn tránh cải cách quasn trọng tiên quyết nền tảng là cải cách chế đồ chủ trương nền giáo dục đó.

Chìa khóa của mọi cải cách có thể thực hiện được là một xã hội khai phóng thông thoáng dân chủ, tạo điều kiện cho sự hình thành và uốn nắn con người về tri thức và đạo đức. Thiếu lòng kính trọng những tầng lớp có giáo dục, có trí thức thực sự, thì khó đạo tạo những người có năng lực thật sự. Nhu cầu đồng bộ hóa về bằng cấp và tiêu chuẩn học vấn đã tạo ra tệ nạn mua bằng, giả bang, thi hộ, gian xảo ỏ nhiều cấp và lãnh vực xã hội.

Tham Nhũng Tràn Lan

Tầng lớp đảng viên và quân nhân của chế độ thiếu đào tạo giáo dục chính đáng, đế có ý thức về trách nhiệm và về tinh thần phục vụ công ích, đã tha hồ tham nhũng, nhất là họ đã được nắm quyền trong hoàn cảnh chế độ chuyên chế và hầu hết xuất thân từ hoàn cảnh xã hội nghèo khổ, thiếu thốn trước kia.

Mạnh ai nấy tham nhũng tràn lan ở các địa phương, ớ các cấp, các ngành. Hầu như không thuốc chữa nếu không thay đổi giới cầm quyền và từ bỏ những cơ hội tăng thêm nạn tham ô bằng các nấc và biện pháp mạo danh là quản lý hành chánh và pháp luật!

Người ta biện minh cho tham nhũng, bằng cách nói rằng xã hội nào chả thế! Nhưng sao không can đảm nói rằng người ta bê bối như thế, nhưng đất nước tôi không tiêu cực như vậy!

Lực Lượng Võ Trang Bảo Vệ Một Đảng

Chế độ quân sự được tổ chức kiểu mafia để bảo vệ một nhóm người. Cứ xem những người được tuyển dụng để biết họ xuất xứ từ đâu (nhiều thanh viên trộm cướp, xi ma, du đãng… được tuyển dụng vào quân đội, công an…). Thực sự nếu các thành phần xã hội, tôn giáo, … khác nhau được tuyển lựa, thì hàng ngũ quân đội hay công an đó mới là những người đại diện chân chính cho quốc gia.

Hành động của chính quyền và công an trong vụ Tòa Khâm Sứ và Thái Hà tại Hà Nội là thí dụ điền hình, biếu trưng thực sự cho tư cách của giới cầm quyền và quân đội CHXNCNVN

Sinh Hoạt Chính Trị Bế Tắc

Vì chỉ có một đảng cộng sản, nên chỉ có một khuôn khổ tổ chức xã hội. Người ta nhân danh là một đảng thống nhất, nhưng thực chất vẫn là một nhóm người thiếu sáng kiến và đào tạo, thiếu những khuôn mẫu uyển chuyển cho xã hội, mỗi khi cần đáp ứng với nhu cầu trong tình thế mới.

Các cơ chế quốc gia không hoạt động đùng chức năng: nhà nuớc, quốc hội, cơ quan, đoàn thề, mặt trận tổ quốc, tòa án,… không có thực quyền ngoài chuyên chính của Đảng.

Luật pháp được lập ra để biện minh, hay che đậy hoạt động của Đảng chứ không phải để điều hòa xã hội và bảo vệ quyền lợi của dân. Bí mật quốc gia bị lam dụng để che đậy những hành động mờ ám phương hại đến quyền lợi nhân dân và công ích quốc gia.

Tệ Nạn Xã Hội Gia Tăng

Không cần thiên vị chủ quan, người ta thấy vì thiếu giáo dục và phán đoán lành mạnh, xã hội Việt Nam ngày nay bị đe dọa bởi nhiều loại tệ nạn khiếp sợ, có ảnh hưởng lâu dài cho đất nước Việt Nam. Người ta khó lòng kể xiết và mô tả đầy đủ các tệ nạn đó.

Chí nhắc đền một số tệ nạn mà báo chí và công luận, truyền thông thế giới nói đến như : tệ buôn bán ma túy, trồng lậu cần sa á phiện, nạn phá thai, nan buôn bán trẻ trai gái vĩ thành niên mãi dâm, xuất khẩu lao động vô trách nhiệm kiểu “đem con bỏ chợ”. HIV/AIDS, buôn lậu nhiều loại sản vật, nạn đành bài bạc, nghiện rượu say sưa,…

Điều đáng báo động là nhiều tệ nạn xã hội đó đã lan tràn đến tầng lớp cầm quyền và đảng viên!

Một xã hội như vậy, mà khốn thay, chưa mở mắt được những giới có trách nhiệm cầm quyền ở Xã Hội Việt Nam ngày nay, mà họ vẫn tự đắc tự phụ cho mình là “Đỉnh Cao Trí Tuệ”!

Đỗ Hữu Nghiêm (Oakland, CA Sun, May 17, 2009)

Rạn nứt lớn trong nội bộ Trung ương CSVN vì cơ chế ém tin - bảo vệ chính trị nội bộ

Theo nguồn tin từ nội bộ của Cộng sản Việt Nam mà chúng tôi biết được, hiện đang có rạn nứt lớn trong trung ương CSVN vì cơ chế ém tin. Cơ chế ém tin là một cơ chế có từ khi hình thành nhà nước Cộng sản. Theo cơ chế này tuỳ từng cấp đảng viên mà được tiếp cận với các tin khác nhau. Cùng là UVTƯ cùng có quyền tiêp cận tin, nhưng tuỳ từng trường hợp lại được tiếp cận tin trước hay sau. Các uỷ viên thường trực của các cơ quan đảng thường trực giữa các kỳ họp hội nghị trung ương được tiếp cận tin tức thời. Các uỷ viên không nằm trong số này được tiếp cận tin tại các kỳ họp đại hội…

Đã xảy ra trường hợp các quan chức Cộng sản lợi dụng cơ chế này để ém tin, hoặc chỉ thông tin vào thời điểm có lợi nhất cho cá nhân hay phe nhóm của mình. Điển hình của việc này là đại dự án Bô-xít Tây Nguyên. Các quan chức chủ trương và hưởng lợi lớn từ đại dự án này thì dựa vào các câu chữ chung chung mơ hồ trong các văn kiện đại hôi TƯCS các khoá trước rồi ngấm ngầm thực hiện cho đến khi triển khai vẫn nằm trong bí mật… Chỉ khi người dân phải di rời và chứng kiến các đại công trường cùng với hàng ngàn công nhân Trung Quốc trên cao nguyên nhuốm đỏ góc trời, báo chí nước ngoài lên tiếng… Một vài nhà báo tự do hay một vài nhà báo vượt rào lên tiếng, rồi các nhà khoa học lên tiếng… Các quan chức Cộng sản đã về hưu mới biết mà lên tiếng … Nhân dân, nhà khoa học, một vài quan chức nhà nước lên tiếng chỉ trích cơ chế ém thông tin trong đảng Cộng sản đã bị lợi dụng trong vụ việc này… Các đảng viên Cộng sản cũng bắt đầu lên tiếng về việc phải có thông tin rộng rãi hơn cho những vấn đề mang tính toàn xã hội … Phải giới hạn qui chế ém thông tin nhân danh việc bảo vệ an ninh, bảo vệ chính trị nội bộ …

Trong nội bộ Cộng sản Việt Nam, chúng vẫn cho phát hành “Bản tin nội bộ” , “Thông báo nội bộ” thuộc tài liệu mật, chỉ phổ biến trong nội bộ, cho đảng viên các cấp… Nhưng có vẻ như các cấp đảng viên không mấy tin tưởng vào tính chất thời sự, trung thực của các bản tin này… Cho nên mặc dù chúng được nhận nhiều tin tức hơn người dân, nhưng vẫn có luồng tin “Truyền miệng” và đảng viên Cộng sản luôn dỏng tai để tiếp nhận và xử lý các tin tức từ nguồn này …

Có thể nói Cộng sản là tập đoàn độc tài tập thể, độc tài luân lưu… Chính việc truyền tay nhau thực hiện độc tài quyền lực trong nội bộ đảng làm cho bộ mặt độc tài của Cộng sản khác với các thể chế độc tài quân sự ở Châu Phi … Việc che dấu bộ mặt độc tài tinh vi này làm cho công luận thế giới ít chỉ trích tính chất độc tài của Cộng sản hơn các thể chế độc tài quân sự Châu Phi. Trong khi độc tài Cộng sản nguy hiểm hơn độc tài quân sự kiểu Phi Châu rất nhiều…

Các chức vụ đứng đầu trong nội bộ đảng, nhà nước Cộng sản được luân lưu truyền tay nhau … Những kẻ tiếp nối cầm quyền luôn là “con tin” của nhiều phe nhóm, nhiều chính sách… Phải điều hoà được với các thế lực Cộng sản kỳ cựu già nua đã nghỉ hưu với cá thế lực đương quyền, và cả với các thế lực đang chờ kế vị … Đã có các trường hợp tranh chấp quyền lợi giữa thế lực đương quyền và thế lực chờ kế vị, vì kẻ đương quyền sắp nghỉ hưu này tìm mọi cách vơ vét trước khi nghỉ … Còn những kẻ chờ kế vị thì cảm thấy bất bình vì nhận ra khi lên tiếp quản quyền lực, không còn nguồn lợi nào đáng kể …

Qui chế hoạt động của Tổng Bí Thư ĐCSVN mặc dù được đem ra bàn thảo xây dựng từ lâu, nhưng đến nay chưa ra đời… Ý định xây dựng một UBKT độc lập do đại hội bầu ra, bao gồm những người không phải là UVTƯ để giám sát các UVTƯ và việc thực thi các nghị quyết TƯ mặc dù được đề xuất từ đại hội 7 – 8 nhưng đến nay vẫn trên giấy ở giai đoạn đồ án… Có điều đặc biệt là kỳ đại hôi TƯCS vừa qua, Trung Quốc công khai can thiệp vào các ý định này thông qua việc Hồ Cẩm Đào phát biểu cảnh báo đảng Cộng sản Việt Nam đã đi quá xa với các nguyên tắc lãnh đạo CSCN … Trong khi đó có nhiều lão thành CSTQ lại lên tiếng ca ngợi CSVN và nói rằng CSTQ nên học tập tư duy đổi mới, dân chủ hoá trong đảng của Cộng sản Việt Nam.

Gần đây, một cựu uỷ viên TƯCSVN hai khoá liên tục - Tên Cộng sản bồi bút Hữu Thọ lại lên tiếng đòi cơ chế giám sát độc lập trong đảng (http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=160876&ChannelID=2) - Cần nói thêm Hữu Thọ lúc đương quyền nổi tiếng là kẻ bồi bút, cơ hội, chưa từng dám có các ý kiến trái chiều, hoặc thường đưa các ý kiến trái chiều mang tính chất tự bộc lộ sự phi lý để TƯ dễ bề gạt bỏ… Việc Hữu Thọ lên tiếng và được báo chí bồi bút Cộng sản đăng tải là dấu hiệu cho thấy đây là vấn đề lớn …

Theo giới quan sát phân tích chính trị độc lập tại Hà Nội có rạn nứt lớn trong trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Số bảo thủ vẫn dùng các thủ pháp truyền thống, qui kết việc đòi hỏi dân chủ hoá trong đảng, thực hiện quyền được nhận tin và thông tin của đảng viên là các bước đi nguy hiểm. xa rời nguyên tắc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong tình hình phức tạp hiện nay… Nhưng nhóm chống đối thì cho rằng việc ém tin, áp dụng tuỳ tiện cơ chế bảo mật, cơ chế đảng lãnh đạo đã làm cho tham nhũng thêm trầm trọng. Họ đòi phải có cơ chế để giám sát việc hiểu, việc thực hiện các nghị quyết của đảng…

Các cơ chế “đặt hạng mục bí mật” – “bảo vệ chính trị nội bộ” – “Xử lý tin trước khi thông tin” – “tiếp cận tin theo cấp bậc, chức vụ” … của Cộng sản thời chiến tỏ ra có hiệu quả trong việc lừa bịp dư luận đổi trắng thay đen … Nhưng trong thời bình, nó bị quan chức Cộng sản lợi dụng để tham nhũng… Và tham nhũng thì không thể có ăn chia đều … Nên nội bộ Cộng sản lục đục … Đây là dấu hiệu cho thấy bản thân đảng viên Cộng sản đã đụng phải và nhận ra tính chất phi lý của các cơ chế quản lý xã hội Cộng sản chủ nghĩa… Nếu không thay đổi nó đe doạ sự tồn vong chế độ. Họ đòi phải sửa đổi cơ chế một cách hữu hiệu, chứ không phải vá víu tạm bợ một cách vô hiệu như trong thời gian qua. Nhưng nếu thay đổi hữu hiệu thì đương nhiên phải thay từ hiến pháp mà trước tiên là thay điều 4 hiến pháp. Mà nếu thế thì như Nguyên Minh Triết nói: Bỏ điều 4 hiến pháp là chúng ta tự sát.

Rạn nứt trong nội bộ trung ương Cộng sản Việt Nam về cơ chế ém tin, cơ chế giám sát quyền lực thực chất là vấn đề bế tắc trong lý luận về nhà nước và pháp luật Cộng sản. Giải quyết được nó cũng đồng nghĩa với việc khai tử chế độ Cộng sản. Thế là rạn nứt, mâu thuẫn trong nội bộ Cộng sản trở thành mâu thuẫn đối kháng. Dùng ngay triết học Mác-Lênin người ta cũng thấy nó chỉ ra rằng: Quân cờ đômino đầu tiên sắp đổ, hay cách mạng sắp nổ ra ở mắt xích yếu nhất.

Lê Sáng


BANH VE BANG MOM


Kiến thức của tôi về hội họa không nhiều, đầu óc lại thực thà chất phác, nghe người ta nói “bánh vẽ” tưởng đó là bức tranh vẽ cái bánh nên thắc mắc, tự hỏi: ai đời lại đi vẽ bánh. Bèn tra cứu trên mạng Internet xem các danh hoạ đông tây có ai vẽ bánh không, thì thấy phần lớn người ta vẽ phong cảnh, vẽ người, vẽ hoa trái, vẽ trừu tuợng, lập thể… Ví dụ như Césane hay vẽ trái cây, Gauguin vẽ dân quê, Van Gogh vẽ cảnh đồng ruộng, Bùi Xuân Phái vẽ phố Hà Nội… không thấy ai vẽ bánh.

Lại đi hỏi các nhà văn, mới hay “bánh vẽ” chỉ là một từ bóng bẩy để chỉ những chuyện người ta phịa ra để dụ khị, để lừa gạt người khác. “Bánh vẽ” đi liền với xảo trá, ba xạo nên ai cũng sợ, nhờ thế mà nó nổi tiếng. Có thể nổi tiếng ngang bằng chú Cuội.

Đặc biệt cái bánh vẽ ấy lại do các nhà chính trị vẽ. Họ không vẽ bằng cọ mà vẽ bằng mồm.

Ngày xưa ông Khổng Tử vẽ cái bánh “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý, đất nước đứng hàng thứ hai, vua thì coi nhẹ) là để sau này làm tài liệu tham khảo cho người ta vẽ ra cái bánh “dân là chủ, đảng viên là đầy tớ của dân” đem đi chào hàng khắp trong thiên hạ.

Đầu thế kỷ 20 có các ông Karl Marx, Lénine vẽ cái bánh “thiên đường cộng sản” rất thơm, rất bự, có thể nuôi sống cả nhân loại, vì vậy mà hàng trăm triệu người đã chạy theo, đánh nhau chí chóe.

Về sau người ta thấy cái bánh ấy chỉ là bức hình vẽ trên giấy bìa cứng, không ăn được, nên ai cũng tự đi kiếm ăn, cái bánh vẽ bị mưa nắng dãi dầu, tróc sơn, nhạt màu, mục nát hết. Các môn đệ chạnh lòng bèn đem nó cất vào viện bảo tàng cho đỡ tủi.

Ở Việt Nam ta, các môn đệ của quý ông Marx, Lénine có lẽ vì sĩ diện lớn quá, và cũng vì sợ “quê” nên chưa chịu đem cất cái bánh vẽ ấy vào bảo tàng mà vẫn còn dọn ra mâm bắt các đảng viên, công chức và sinh viên “ăn” mỗi ngày, còn quý thầy thì “nhai lại” hết năm này qua năm khác như những con bò già mệt mỏi.

Xem ra ở Việt Nam cái món “bánh vẽ” vẫn còn có người nhai, nếu không sao gần đây lại có ông quan lớn ở một thành phố miền Trung nọ tung ra thị trường loại bánh có tên thương mại là “Bầu trực tiếp Chủ tịch thành phố”.

Có người qua đường liếc nhìn cái bánh ấy, bèn hỏi:

-Bầu trực tiếp Chủ tịch thành phố, vậy ai được quyền ứng cử?

Đáp:

-Mọi công dân Việt Nam tuổi từ 18… đều được quyền ứng cử.

-Không là đảng viên cộng sản, ứng cử được không?

-Được tuốt. Nếu có Mặt Trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ…giới thiệu.

-Vậy có khác gì bầu đại biểu quốc hội?

-Ừ… cũng giống như vậy…

-Nhưng nếu ông Chủ tịch thành phố mà giống như mấy lão “nghị gật” bù nhìn thì chán chết.

Vị quan nọ xem chừng cái bánh của mình bị khách hàng chê bèn nói:

-Nếu anh không là đảng viên mà đắc cử Chủ tịch Thành phố thì đó là điều rất mới chứ. Đó là một bước đột phá ngoạn mục.

Người nọ bèn đặt vấn đề:

-OK. Giả dụ như tôi đắc cử Chủ tịch thành phố nhưng tôi lại không phải đảng viên, thì khi họp thành ủy tôi đâu được quyền tham dự.

-Ôi dào! Anh tham dự làm gì? Họp hành chán lắm anh ơi!

-Nhưng các giám đốc Sở, dưới quyền tôi, thì đều tham dự vì họ đều là đảng viên, vậy họ nghe lệnh ông Bí thư thành ủy hay nghe lệnh tôi?

-À…ả…cái đó thì… nhưng mà nghe lệnh ai thì cũng là làm việc nước cả.

Người nọ cười, rồi kể một câu chuyện dân gian:

-Xưa có ông nhà giàu rất cưng con mèo của mình, bèn đặt tên nó là Trời. Hàng xóm hỏi:

“Sao lại đặt tên như vậy?”

“Vì Trời là lớn nhất.”

“Nhưng trời sẽ bị mây che.”

“Thì đặt tên nó là Mây.”

“Mây sẽ bị gió thổi.”

“Thì đặt tên là Gió”

“Gió sẽ bị tường ngăn lại,”

“Thôi, để tôi đặt tên nó là Tường vậy.”

“Nhưng tường lại bị chuột đào hang, rồi sẽ sụp đổ.”

“Thế thì chọn tên Chuột.”

“Ông không biết là chuột sẽ bị mèo ăn thịt sao?”

Người nọ thở dài ngao ngán:

“Đừng nói nữa. Xưa nay người ta gọi nó là mèo thì cứ gọi Mèo cho xong chuyện!”



Loa phóng thanh “tra tấn” người dân Hà Nội

Trần Ánh Tuyết, 33 tuổi, viên chức thông tin văn hóa của phường Phương Mai, đọc tin tuyên truyền qua hệ thống loa phóng thanh ở Hà Nội. Chiến tranh đã chấm dứt hơn 34 năm qua và xã hội Việt Nam đang tiến vào thế giới điện tử mà hàng triệu người đang sử dụng internet mỗi ngày. Hệ thống loa phát thanh gắn từng khu phố mà nhà nước dùng để tuyên truyền từ sáng đến tối mỗi ngày cả nửa thế kỷ nay, buộc người ta phải nghe dù muốn hay không. (Hình AP).
Monday, May 18, 2009 - HÀ NỘI - Dù muốn hay không, ông bà già hay trẻ con mới đẻ cũng đều phải nghe những lời tuyên truyền của chế độ CSVN từ sáng sớm đến tối mịt.
Mà không phải ở các vùng quê, ngay thủ đô Hà Nội cũng vẫn còn hệ thống loa tuyên truyền treo trên các cột điện trong thành phố.
Mỗi ngày, từ khoảng gần 4 giờ chiều, bà Hoàng Thị Gái cố dỗ đứa cháu mới có 5 tháng cho nó ngủ để còn sửa soạn bữa cơm tối cho cả nhà. Chỉ 15 phút sau, mấy cái loa trên cột điện ngoài phố Hà Nội phóng âm thanh chát chúa vào nhà.
“Nó giật mình ré lên khóc và mặt nó đổi mang màu tím.” Bà Gái 61 tuổi, kể. “Đứa cháu yêu của tôi vẫn không quen nổi với cái thứ âm thanh đó”.
Đối với một đất nước đang thay đổi nhanh chóng mà chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng từ lâu, đây là một cái tàn tích khó lòng quên được. Một hệ thống loa phát thanh được thành lập trên cả nước để nhà cầm quyền tuyên truyền từ mờ sang đến tối, mỗi lần 30 phút, dù người dân muốn nghe hay không.
Bây giờ chính trị gia cũng biết xài internet muốn bỏ cái hệ thống loa đi để cho các tin tuyên truyền vào internet, chỗ mà người dân có thể đọc khi rảnh rỗi.
Khi còn chiến tranh, hệ thống loa tuyên truyền rất cần thiết để thông báo các vụ dội bom của máy bay Mỹ. Bây giờ, các chương trình phát thanh trên loa trộn lẫn tin tức địa phương, những câu đố tuyên truyền, bài viết nói về ý hệ Cộng sản và các bài hát yêu nước.
“Tôi phải nhìn nhận, đối với những người sống ở gần cái loa, đó là tai họa. Nó hành lỗ tai người ta.” Phạm Văn Hiển nói trong cụôc phỏng vấn của hãng thông tấn AP.
Hiển, 38 tuổi, là chủ tịch phường Phương Mai, một trong 50 phường ở thành phố Hà Nội. Ông vận động chống lại hệ thống loa phát thanh tuyên truyền lỗi thời và được sự ủng hộ rộng rãi của những người tham dự các diễn đàn internet, các ngừoi viết blogs các báo điện tử.
“Hãy tưởng tượng nhà anh ở gần cái loa phát thanh tuyên truyền và có người trong gia đình ốm sắp chết mà vẫn cứ phải nghe mãi cái bài hát “Không có ngày nào đẹp như ngày hôm nay”, một cư dân tên Trần Hùng viết than phiền với báo Tiền Phong điện tử.
“Như vậy là độc ác”. Hùng viết tiếp. “Nếu hàng xóm của tôi gây ra cái âm thanh đinh tai nhức óc đó, tôi kiện nó ra tòa. Tại sao nhà nước tự cho mình cái quyền làm ồn?”

Loa phát thanh tuyên truyền gắn trên cột đèn ở thành phố Hà Nội. (Hình AP)

Tại bộ Văn Hóa, Thể Thao, Du Lịch, cơ quan chủ quản hệ thống loa phát thanh, quan chức ở đây từ chối bình luận về lời phê bình của ông Hùng.
Còn ông Hiển nói ý kiến của ông được rất nhiều người ở cấp cao hơn trong đảng cộng sản tán đồng và muốn ứng dụng kỹ thuật mới để cải thiện hình ảnh của Đảng. Nhưng ông ta cũng không muốn thúc đẩy quá mạnh vì sợ các xếp sẽ khó chịu. Vì vậy ông chỉ muốn chỉ ra cho họ thấy làm sao hệ thống tuyên truyền này được hiện đại hóa và hy vọng các xếp lớn hiểu được thông điệp. Nghĩa là dân chúng “phải được quyền lựa chọn cái họ muốn nghe chứ không phải bị bắt buộc phải nghe”.
Hàng ngàn cơ sở trên cả nước được dùng làm nợi phát thanh tuyên truyền hàng ngày qua hệ thống loa. Chỉ riêng tại Hà Nội đã có 577 địa điểm. Họ đẽo gọt bản tin hàng ngày cho hợp với nhu cầu địa phương nhưng bao gồm rất nhiều tin của Bộ Văn Hóa.
Ở khu vực của ông Hiển có 20,000 người thì có 60 hệ thống loa đặt trên các cột điện và phát thanh từ cái phòng canh nhỏ bé.
Một ngày gần đây, người đọc bản tin là bà Trần Ánh Tuyết, viên chức nhà nước 33 tuổi. Bà đọc từ một tờ tài liệu có tên “Gia Đình Hạnh Phúc”, thông báo tin tức về cụôc kiểm kê dân số sắp xảy ra. Rồi bà kêu gọi mọi người “nâng cao đời sống tinh thần” bằng cách bỏ coi TV và tham dự các biến cố văn hóa.
“Hãy làm cho thành phố Hà Nội đẹp dưới mắt bạn bè quốc tế.” Bà đọc như vậy và thúc giục người ta tạo ra một “khung cảnh lịch sự và văn hóa”.
Các buổi phát thanh hay thúc giục người ta theo gương Hồ Chí Minh theo sự tuyên truyền của chế độ khác với những gì mà nhiều tài liệu được giải mật từ Nga, từ Trung quốc đã cho biết.
Trang tin trên web của Hiển có tên “Tin Tức Phương Mai” cung cấp tất cả những gì mà người ta phải nghe qua loa phóng thanh, từ trận lụt tới sự tiên đoán của thầy bói Nga nói Obama sẽ đắc cử ở Mỹ.
Theo lời Hiển, quá nửa các nhà trong phường của ông có internet. Lại còn có thêm mấy tiệm dịch vụ internet. Ông cho hay trang web của ông có tới 800,000 lượt người thăm viếng kể từ khi được xuất hiện năm ngoái. Báo điện tử VietnamNet viết một bài về trang web này, tiếp theo là một bài của hệ thống truyền hình nhà nước.
Khi loa phát thanh bắt đầu chát chúa lỗ tai từ 7 giờ sáng, Nguyễn Thị Oanh, 23 tuổi, vùi đầu xuống bên dưới mấy cái chăn.
“Ai thèm để ý đến các cái tin họ đọc?” Cô nói. “Âm thanh lại quá tồi, giống như người nghẹt mũi.”