Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2009

HO CHI MINH TIEU DIET VAN HOA TRUYEN THONG VIET

CỘNG SẢN & CHỦ TRƯƠNG TIÊU DIỆT VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

GS NGUYỄN THIÊN THỤ

Ghi chú của Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN: GS NGUYỄN THIÊN THỤ là một học giả về văn hóa - nghệ thuật Việt Nam hiện đại, nguyên giảng sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước tháng 4-1975. Ông là tác giả bộ “Văn Học Hiện Đại”, xuất bản tại hải ngoại năm 2006, trên 2500 trang, chưa kễ các sách xuất bãn tại Sài Gòn. Ông hiện đang soạn thảo vài bộ sách khác nữa, sẽ được giới thiệu trong thời gian tới đây.

Ông hiện sống tại Ottawa, Canada.

* * *

Chính sách chuyên chính vô sản đã xuống tận các ngành nghề và thôn xã. Kinh tế, chính trị, khoa học đã đối diện với bộ mặt kinh khủng của nó. Văn hóa là mặt trận bị cộng sản vây đánh hội đồng mặc dù chúng nó không có kiến thức văn học nghệ thuật nhưng quỷ vương đã cho chúng làm công an văn hóa. Trong TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN (TNCS), chính Marx đã ra chỉ thị cho vô sản lật đổ thượng tầng kiến trúc cũ, đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa cũ.
Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN I ,15)

Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN II, 5)

Chỉ thị của Marx chỉ trong mấy dòng ngắn ngọn nhưng đã gây ra bao cảnh tàn phá đau thương, gây thiệt hại cho đời sống tinh thần và vật chất của quốc gia và xã hội. Đó là tội ác vi phạm nhân quyền và tàn phá tài sản nhân loại.Ông mù quáng, không thấy khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn là sự kế thừa của nhân loại. Những khoa học và triết học La, Hy, Ấn, Hoa đã làm nền tảng cho văn minh nhân loại ngày nay. Ông quên rẳng tư tưởng của ông cũng chỉ là tiếp thu tư tưởng của cách mạng Pháp, kinh tế Anh và triết học Đức.

Về triết học, ông không thể phủ nhận Hegel mặc dù có nhiều điểm ông khác Hegel. Ông cho rằng thuyết duy vật của ông đúng nhất, còn các thuyết duy tâm là sai cho nên tất cả tư tưởng, tín ngưỡng ngoài Marx là lạc hậu, phản khoa học, cần diệt trừ. Ông chủ trương phủ định của phủ định, cái mới tốt hơn cái cũ và diệt trừ cái cũ.Ông còn nói "Tôn giáo là thuốc phiện". Theo ông, các đệ tử của ông đốt sách, phá chùa chiền, nhà thờ, cấm dân chúng thờ cúng tổ tiên, cấm các phong tục tập quán, luân lý đạo đức cũ, bỏ tù hay giết hại những ai làm thơ, viết truyện, viết biên khảo hay phát biểu tư tưởng ra ngoài khuôn khổ Marx. Bởi vậy mà cộng sản muốn hủy bỏ gia đình, bắt trẻ con hoan hô lãnh tụ thay vì dạy trẻ yêu cha me, tổ tiên. Truyền thống của ta là trẻ kính già, con cái hiếu thảo với cha mẹ. Hồ Chí Minh tuân theo Marx, trong nước không phân biệt già trẻ, cha con cứ gọi nhau bằng đồng chí, anh em, chỉ riêng ông Hồ thì gọi là bác. Khẩu hiệu của Hồ là "trung với đảng, hiếu với dân". Chúng còn tàn ác hơn, bắt con tố cha, vợ tố chồng, học trò theo dõi thầy, phá hủy truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.

Việc cải cách ruộng đất, đánh tư sản, triệt hạ tôn giáo ở Nga, ngoài mục đích hủy bỏ tư hữu, trừng phạt " kẻ dị giáo", bọn bóc lột, phản động, tâm ý Lenin là nhắm vào ruộng đất và tiền bạc của Chính thống giáo, một kho tiền bạc mà Lenin nghĩ là có thể giúp ông trang trải ngân sách thiếu hụt của nền kinh tế khập khểnh lúc ban đầu. Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh phát động cải cách ruộng đất, đánh tư sản, triệt hạ tôn giáo cũng là muốn tóm thâu vàng bạc của dân chúng để làm tài sản cho họ.

Con người sống với quá khứ, hiện tại và tương lai. Cộng sản cắt bỏ quá khứ chỉ nói đến lich sử hiện tại có mặt cộng sản và ra sức tô son chuốt phấn cho họ như Hồ Chí Minh đề cao cộng sản Việt Nam, nói xấu Quốc Dân đảng, Đại Việt, và trong xã hội và trường học, cộng sản Việt Nam chỉ đề cao Hồ Chí Minh, Tố Hữu . Họ bắt văn nghệ sĩ phải ca tụng họ cho dù đảng ăn cắp, phản dân, hại nước.

Cách mạng là thay cũ đổi mới nhưng phải phân biệt tốt xấu, đúng sai. Mạnh tử dạy " Tận tín thư bất như vô thư". Descartes nói rằng phải suy nghĩ và kiểm nghiệm trước khi tin tưởng. Đó là những thái độ của trí thức và khoa học. Còn mỗi người có một lối suy nghĩ riêng, không nên rút phép thông công hay đưa lên giàn hỏa như hành động của nhà thờ trung cổ.

Chủ thuyết của Marx coi nhân dân là kẻ thù ( công nhân, vô sản chỉ là bù nhìn) cho nên bị nhân dân chống đối.Chủ thuyết đấu tranh giai cấp chỉ đưa đến độc tài chuyên chế .

Chủ thuyết cách mạng triệt để của Marx là thái quá. Chúng ta phải công nhận xã hội nào thì có nền thượng tầng kiến trúc nấy. Nền kinh tế tư bản đã đưa ra nhiều công cụ sản xuất mới, nhiều khám phá mới, và nhiều tư tưởng mới. Nhưng trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, những tư tưởng xưa, những vốn liếng cũ vẫn được giữ lại như các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành giáo, Hồi giáo, Khổng giáo vẫn còn tồn tại mặc dầu có nhiều thay đổi. Người ta xây dựng cái mới trên cái cũ chứ không phá hoại tất cả cái cũ.

Thái độ tự tôn của Marx cho rằng ông đúng nhất, ông miệt thị các nhà xã hội và các đảng vô sản, đảng xã hội và đảng công sản đương thời. Thái độ kiêu căng, khinh mạn đó ông đã thừa hưởng ở Hegel. Thái độ hung hãn, coi khinh thiên hạ của ông đã truyền lại cho đời sau tính độc tài tư tưởng, và chính sách vô sản chuyên chính của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đưa đến việc bỏ tù và tàn sát hàng trăm triệu người.

Chính sách phá hủy thượng tầng kiến trúc xã hội đã gây nhiều tai hại như một cơn sóng thần tàn phá của cải vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại.Nó dẫn đến nhiều tệ hại:

+ Lãnh tụ kiêu căng, cho mình là tài giỏi nhất, đảng do họ lãnh đạo là bách chiến bách thắng. Trong khi lãnh tụ kiêu căng thì đưa đến bọn thủ hạ ninh hót, dối trá.

+Chủ trương độc đảng, họ cho rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản là tốt, ai không theo cộng sản thì bị bách hại, những ai kể cả đảng viên có ý kiến khác lãnh tụï là bị trừng phạt như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Độ, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hộ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Kiến Giang. . .

+Vì chủ trương phá hủy pháp luật cho nên họ khinh thường pháp luật, ra tay chém giết hay bỏ tù tùy thích và lấy cắp tài sản quốc gia tùy thích. ..

+Chủ trương “tôn giáo là thuốc phiện” đưa đến việc ngăn cấm tự do tôn giáo, phá hủy chùa chiền, đền đài. Nay cộng sản tu tạo đền đài, chùa chiền không phải tôn trọng tín ngưỡng và văn hóa cũ, chẳng qua là muốn lấy tiền của UNESCO và phát triển ngành du lịch, đồng thời lấy tiền những người tham quan, sùng bái, hành hương, lễ hội bỏ túi.

+Độc quyền tư tưởng Marx đưa đến việc suy tôn lãnh tụ, ca tụng đảng dù đảng xấu xa, và bóp nghẹt sáng tác văn học, nghệ thuật và khám phá khoa học. Cũng vì muc tiêu tuyên truyền, cộng sản đã xuyên tác lịch sử, ca tụng người giả việc giả, làm cho nhân dân và học sinh, sinh viên chán văn học nghệ thuật cộng sản, dẫn đến việc giáo dục và văn học, nghệ thuật suy đồi.

Viết "Tuyên ngôn của đảng cộng sản", "Tư Bản luận" , Marx có dụng tâm chính trị chứ không thuần triết lý.Ông thấy thời bấy giờ cách mạng kỹ nghệ đang lên, ông muốn dùng giai cấp vô sản với hứa hẹn xóa bỏ bóc lột, tịch thu tư liệu sản xuất giao cho công nhân làm chủ, để cho họ theo mình. Ông cũng mơ ước xóa bỏ giai cấp tư sản thì nhân loại tiến bộ và hoà bình nhưng ông đã lầm. Cuối cùng thì tư sản cũng như vô sản và toàn dân đều trở thành nô lệ của cộng sản. Chỉ có bọn cộng sản là có lợi trong việc chiếm hữu toàn thể tài sản quốc gia và làm chủ đất nước. Chủ nghĩa Marx là một giấc mộng hão huyền và cũng là một sự dối trá lớn nhất của thế kỷ XX đã làm cho hàng trăm triệu người chết, là một thiêt hại gần gấp đôi hai cuộc thế chiến vừa qua!.

Xin đọc

+ CỘNG SẢN LUẬN của Nguyễn Thiên Thụ

+NHỮNG CON CÁO ĐỎ của Nguyễn Thiên Thụ
tại Sơn Trung Thư Trang

http://sontrung.blogspot.com/

Thái thú Hồ Chí Minh : học trò nhiều mặt của Mao

Hồ Chí Minh : “Ta thà làm Thái thú đất Bắc còn hơn làm người bảo vệ nước Nam”
Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng (1259-1285) sống mãi trong tim hồng của Dân Việt nhờ câu nói bất khuất trung dũng: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện thời cũng sẽ sống mãi trong tim đen của Dân Việt qua câu nói: “Ta thà làm Thái thú đất Bắc còn hơn làm người bảo vệ nước Nam”.

Dĩ nhiên đám cầm quyền này (cụ thể là 15 thành viên trong Bộ Chính trị hiện thời) không thốt ra từng chữ câu trên nhưng đã và đang bày tỏ điều ấy qua từng hành động của họ. Khởi từ và bắt chước Hồ Chí Minh, học trò nhiều mặt của “Mao chủ tịch vĩ đại”, tập đoàn lãnh đạo CSVN từ trước tới nay chỉ có một sự nghiệp duy nhất: mở đường, mở biên giới, mở hải lộ cho Trung Cộng tiến xuống phía Nam, thôn tính đất Việt để mình được muôn đời làm Thái thú. Họ luôn câm họng trước những đòi hỏi ngang ngược của Kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, kể từ đòi hỏi về hải phận 12 hải lý ngày 14-09-1958 (Công hàm bán nước), qua đòi hỏi về Ải Nam quan, thác Bản Giốc ngày 30-12-1999 (Hiệp định biên giới), đòi hỏi về 47% diện tích biển Đông ngày 25-12-2000 (Hiệp định vịnh Bắc bộ), đòi hỏi về khai thác bauxite ở Tây Nguyên ngày 03-12-2001 (Tuyên bố Việt-Trung) rồi ngày 01-11-2007 (Quyết định 167/QĐ-TTg), đến đòi hỏi về việc đánh cá ngày 16-05-2009.

Nói cho ngay, đôi khi cũng có vài lời phản kháng của phát ngôn viên bộ ngoại giao CSVN, nhưng đó chỉ là những ngôn từ hết sức yếu ớt, vô cùng chiếu lệ, chẳng kèm theo hành động gì trên thực địa và trước quốc tế cả. Ngày 8-1-2005, Trung Cộng bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa, thế nhưng Phan Văn Khải (thủ tướng CSVN) và Nguyễn Di Niên (ngoại trưởng) vẫn câm họng về vụ việc trước Cố Tú Liên (phó chủ tịch Quốc hội TQ) và Tề Kiến Quốc (đại sứ TQ tại Việt Nam), một chỉ nâng ly chúc mừng mối quan hệ 50 năm thần phục. Gần đây hơn, giữa lúc tàu vũ trang của Trung Cộng cấm cản, cướp bóc, phá hoại tàu đánh cá của Việt Nam, làm ngư trường sóng gió, ngư dân điêu đứng, ngư nghiệp lụn bại, thì ngày 25-05, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Á-Âu lần thứ 9, Ngoại trưởng CSVN Phạm Gia Khiêm vẫn chỉ biết xun xoe trước Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì rằng “quan hệ hai nước thời gian vừa qua tiếp tục có những tiến triển quan trọng… quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung nhất định sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa”. (x. TTXVN 25-05-2009). Hôm sau, đến phiên Nông Đức Mạnh lại trâng tráo bày tỏ trước tên đại diện Thiên triều: “Đảng, Nhà nước và nhân dân VN luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ, vun đắp cho quan hệ đó ngày càng đơm hoa kết trái” (x. http://www.cpv.org.vn). Ngày 04-06, thay vì triệu Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường tới Bộ Ngoại giao để trao công hàm phản đối, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn lại nhục nhã lết đến trụ sở của tên đại diện này, van xin hắn đừng “tăng cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá Việt Nam… đừng cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nữa” (x. TTXVN 06-06-09). Đến ngày 12-6, Nông Đức Mạnh lại tiếp Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị Trung Cộng với những lời lẽ của lũ bầy tôi khiếp nhược: “Chuyến thăm Việt Nam lần này của Đoàn thể hiện sự quan tâm và coi trọng của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đối với việc thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, là biểu hiện sinh động của việc xây dựng quan hệ đối tác tác chiến lược toàn diện Việt-Trung; VN đánh giá cao việc hai nước hợp tác có hiệu quả ở tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung Quốc lên một tầm cao mới”. (x. TTXVN 13-06-2009). Cái gì đã khiến cho những tay lãnh đạo chóp bu này phải câm miệng trước quốc nhục và quốc họa nhãn tiền trên Biển Đông như vậy? Đến phiên Nguyễn Tấn Dũng lại câm miệng về chuyện bauxite trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 12 (20-05 đến 20-06) vì đã được Trung Cộng tống vào họng 150 triệu đôla từ tháng 10-2008 (theo Chân Trời Mới 17-06-2009)

Và như một mặc cảm bù trừ, càng câm miệng trước Đại Hán bao nhiêu, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam càng bịt miệng người dân Việt Nam bấy nhiêu. Nạn nhân đầu tiên của họ chính là cái Quốc hội bù nhìn, nơi lẽ ra vang lên tiếng nói trung thực của nhân dân. Thế nhưng, 12 khóa Quốc hội lại chỉ là 12 đợt gia nô hoàn toàn câm nín để sống còn, ngậm miệng để ăn lương, chuyên giơ tay “nhất trí cao” để tỏ ra “phấn khởi lớn” trước đảng. Từ 1946 đến nay, cái Quốc hội khốn khổ và khốn nạn này đã im re trước Công hàm bán nước 1958, đã nhắm mắt ký bừa hai hiệp ước lãnh thổ (1999) và lãnh hải (2000), đã thản nhiên ra bừa vô số luật, nghị quyết, pháp lệnh chỉ có lợi cho đảng. Gần đây nhất, kết thúc phiên chất vấn ngày 13-06, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng -bất chấp sự phản kháng của toàn dân- đã thay mặt các đại biểu để lên tiếng (thực chất là câm lặng) trước đảng như sau: “Vấn đề thăm dò, khai thác và chế biến bôxít ở Tây nguyên là vấn đề rất lớn, nhạy cảm, được nhiều cử tri đại biểu quan tâm và tất cả các ý kiến đều đồng ý về chủ trương, chứng tỏ có sự đồng thuận lớn. Nhiều đại biểu đã góp ý cho dự án về nhiều mặt: kinh tế, môi trường, an ninh, công nghệ, bản sắc văn hóa dân tộc... Các ý kiến đều có tính xây dựng, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao… Quốc hội sẽ tiếp tục giám sát dự án này trên cơ sở của sự đồng thuận và ủng hộ, bảo đảm làm sao cùng Chính phủ, cùng với các cơ quan khác trong toàn hệ thống chính trị thúc đẩy thực hiện cho được chủ trương mang tính chiến lược rất quan trọng này" (x. Tuổi trẻ online 13-06).

Nạn nhân thứ hai bị buộc phải câm lặng là báo chí, vốn phải là tiếng nói của nhân dân, phản ảnh của công luận, cơ quan của sự thật. Thế nhưng, theo nhà văn Võ Thị Hảo (bài Ngày báo chí Việt Nam 21-6-2009 : một lễ cầu siêu...), “sau sự kiện nhà xuất bản Đà Nẵng và báo Du lịch bị tạm đình bản… thì diện mạo xã hội Việt Nam và làng báo Việt Nam, cho đến giữa năm 2009 này có “nhiều điều trông thấy mà đau đớn lòng…” Đó là sự “nhắm mắt”, sự “xuôi tay” của báo chí trước rất nhiều sự thật. Mà những sự thật đó mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của đất nước và quyền tự do dân chủ của công dân… Báo chí -niềm hy vọng cuối cùng của công dân trong việc giám sát, sự minh bạch và công khai- đã ở vào tình thế nhiều khi buộc phải “nhắm mắt”, “xuôi tay”, nên lâu nay, mỗi ngày là một đại lễ hân hoan cho thế giới sâu mọt phá hoại nền kinh tế đất nước và phá hoại đạo đức xã hội… Cách thông tin của nhiều tờ báo hiện nay, đối với nhiều sự kiện quan trọng, được nhiều công dân hình dung thế này : Một tiếng búa gõ xuống, con gà được phép mổ một hạt thóc. Ngừng gõ, gà đừng mổ… Năm 2009 là năm báo chí Việt Nam, như nhiều người vẫn nói, “đành ngậm ngùi nhắm mắt xuôi tay”. Những người có lương tâm nghề nghiệp thì đành viết những bài “vô thưởng vô phạt”, làm công ăn lương. Những người không có lương tâm thì hả hê…”, nhất là nếu được bồi dưỡng kiểu 300K như sau cuộc họp báo của Công an về vụ Ls Lê Công Định!

Nạn nhân thứ ba chính là những người mà chức năng nghề nghiệp là lên tiếng cho công lý, tức các luật sư. Thế nhưng, thời gian gần đây, vụ sách nhiễu Luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự vì “tội” biện hộ cho giáo dân Thái Hà và dự định biện hộ cho các nhà dân chủ Khối 8406 đang bị giam, vụ bác đơn của Luật sư Cù Huy Hà Vũ vì “mưu đồ” kiện thủ tướng CS ra tòa do đã làm trái luật bảo vệ môi trường, luật quốc phòng, luật di sản văn hóa, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi ra quyết định 167/2007 về việc khai thác bauxite Tây Nguyên, đặc biệt nhất là vụ bắt Luật sư Lê Công Định vì “tội” có những hoạt động dân chủ như viết bài đề cao pháp trị đa nguyên, soạn Hiến pháp mới, biện hộ cho các nhà đối kháng, tham gia các chính đảng đấu tranh bất bạo động, và dự tính cùng với luật sư Lê Quốc Quân kiện Trung Quốc ra quốc tế vì đã cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển của Việt Nam (ông bị bắt khẩn cấp một ngày sau chuyến viếng thăm của Lý Nguyên Triều), tất cả những vụ đó chứng tỏ đảng ra ra sức bình sinh bịt miệng các phát ngôn nhân của lẽ phải. Điều đáng xấu hổ là trong vụ này lại có sự “tung hứng theo đảng” của hai nhân vật nổi tiếng: Một là “giáo sư đại biểu” Nguyễn Lân Dũng vốn kết án Ls Định kiểu ngu trung: “Việc lập ra cả một Hiến pháp mới là chuyện hết sức phi lý. Đó là điều không ai có thể chấp nhận… Điều gì không phải thì nên phản biện, chứ không phải là thái độ kích động để lật đổ chính quyền. Điều đó là phạm pháp rõ ràng”. Hai là “luật sư đại biểu” Nguyễn Đăng Trừng, Chủ nhiệm Luật sư đoàn thành Hồ, vốn đã mau mắn đón ý ông chủ đảng mà ký quyết định xoá tên luật sư Định (từng làm phó cho ông ta) trong danh sách luật sư đoàn đang khi sự việc chưa ngã ngũ. Bị bịt miệng hay tự bịt miệng?

Dĩ nhiên cũng phải kể đến những nạn nhân thường xuyên, chính hiệu, được quan tâm đặc biệt, tức những công dân ngoài vòng bộ máy nhà nước mà đã và đang nhất định không chịu câm miệng và không để cho đảng dễ dàng bịt miệng trước bao sai lầm và tội ác của đảng, trước bao bất công và thống khổ của dân, trước bao nguy cơ và thảm họa của nước. Đó là các nhà đối kháng dân sự và đối kháng tôn giáo vốn đã và đang lên tiếng qua hình ảnh bị bịt miệng, qua sự im lặng trong nhà tù, qua tình trạng bị sách nhiễu quản chế, qua cảnh bị cướp bóc phương tiện, qua nỗ lực mở miệng, viết bài, tung chiến dịch lấy chữ ký, tập hợp quần chúng cách can đảm và đầy trí tuệ để bày tỏ thái độ…

Tuy nhiên, với tình thế hiện nay, chỉ lên tiếng khi đảng chưa đến bịt miệng và chưa kịp bịt miệng thôi không đủ. Cần phải mạnh mẽ và vĩnh viễn gạt bàn tay bịt miệng của cái thế lực gian trá và côn đồ đó. Ngoài việc lên tiếng cách cá nhân và tập thể, đã đến lúc nhân dân phải xuống đường, phải biểu tình, phải cất giọng long trời lở đất để làm im bặt mãi mãi tiếng nói độc quyền đã làm mưa làm gió trên đất Việt suốt mấy chục năm nay.

CSVN thần phục chó TQ do vô tổ quốc, vô dân tộc

Quán tính thống trị, thống trị theo kiểu bạo chúa và quán tính thần phục, thần phục đến độ nô lệ, là hai trong những nét đặc trưng của các đảng Cộng sản và các chế độ Cộng sản. Nói cách khác, chủ nghĩa CS chưa bao giờ là một chủ nghĩa để xây dựng một chính đảng hay một quốc gia có tinh thần độc lập với những thành viên tự do. Nó là chủ nghĩa cá lớn hiếp cá bé một cách tàn bạo: Đảng CS lớn hiếp đảng CS bé, và đảng viên CS to hiếp đảng viên CS nhỏ (chưa kể đảng CS hiếp đáp toàn thể nhân dân mình). Điều này thấy rõ qua sự khống chế tàn khốc của Cộng hòa Nga đối với 14 cộng hòa còn lại trong Liên bang Xô viết trước đây; sự can thiệp thô bạo của đảng CS Liên Xô vào các đảng CS Đông Âu lẫn các đảng CS nhỏ khắp thế giới, kể cả các đảng CS tại những quốc gia tư bản trước năm 1990; sự uy hiếp trắng trợn của đảng CS Trung Quốc đối với các đảng CS ở Đông Dương lúc này… Riêng trong mỗi đảng CS là sự thống trị kiểu bạo chúa của Bộ chính trị trên các đảng viên bên dưới và của kẻ quyền lực nhất trên các thành viên còn lại của Bộ Chính trị.
Rumani từng phải đào một thủy lộ lớn -với giá hàng trăm ngàn sinh mạng công dân của mình- để chuyên chở tài sản đất nước qua Liên Xô. Maurice Thorez và đảng CS Pháp từng ca tụng Liên Xô “đã đào tạo con người trưởng thành rất sớm” khi Stalin hạ mức án tử hình xuống ngang 14 tuổi. Một đảng viên CS Đông Đức từng mặc áo mưa, tay che dù đi giữa trời nắng tại Berlin chỉ vì lúc ấy bên Moskva trời đang mưa xối xả. Hồ Chí Minh từng tuyên bố trên quả địa cầu này, ai cũng sai lầm hết, trừ hai lãnh tụ bất khả ngộ là Stalin và Mao. Stalin từng giết hết tất cả các ứng viên kế vị Lênin trong Bộ Chính trị để trở thành “Người Số một”. Mao cũng từng thanh trừng các đại đồng chí như Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ, chỉ chừa lại Chu Ân Lai vốn tôn sùng Mao như một tên nô lệ…
Đảng CSVN, sau thời kỳ ban đầu tùng phục hai đàn anh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, đã chuyển sang tùng phục Liên Xô và kết án Trung Quốc thậm tệ (xem cuốn “Sự thật về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua” do bộ Ngoại giao CSVN công bố ngày 04-10-1979). Sau khi Liên Xô sụp đổ đầu năm 1990, CSVN quay lại thần phục Trung Quốc vì không còn biết tìm chỗ dựa nơi nào khác qua màn “thú tội, qui hàng” ô nhục tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, TQ, vào tháng 9 cùng năm này. Quán tính thần phục do vô tổ quốc, vô dân tộc mà lỵ! Kể từ thời điểm đó, sự lệ thuộc chủ-tớ, sự gắn bó răng-môi, sự kết nối ca-đệ ngày càng khiến Việt Cộng sa vào vòng tay Trung Cộng, Nam phiên cuốn vào quỹ đạo Bắc triều. Mối quan hệ này được đánh dấu bằng những hiệp định bất bình đẳng về biên giới và vịnh biển năm 1999 và 2000, bằng những cuộc khấu đầu bái yết của các tân tổng bí thư, tân bộ chính trị CSVN sau từng đại hội đảng, bằng những cuộc trình báo xin phép của các phái đoàn CSVN trước khi đi thương lượng với chính giới Mỹ-Âu, bằng những tuyên bố chung bất lợi cho VN năm 2001, 2008 (về khai thác bauxite), bằng những công trình đang được khai triển ở VN và các quốc gia lân cận như xây dựng xa lộ Trường Sơn, mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua Quảng Trị, xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, khai thông lòng Cửu Long để tàu vận tải nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội, miễn hộ chiếu cho người Trung Quốc vào tận mũi Cà Mau, cho phép hình thành những làng Tàu từ Nam chí Bắc và đặc biệt là để cho Trung Quốc khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Nhưng đau thương nhất và ô nhục nhất, mối quan hệ Việt Trung ấy được đánh dấu bằng những cuộc tàn sát, bắt bớ, cướp bóc ngư dân VN trên biển kể từ năm 2005 đến giờ mà CSVN chỉ phản kháng lấy lệ đôi lần, ngoài ra không có hành động gì cụ thể đối với Trung Quốc lẫn trước quốc tế (xin xem Kháng thư số 25 của Khối 8406) và bằng những cuộc cấm cản, bắt bớ, xử tù những ai khơi dậy tinh thần phản kháng quân Tàu. Bàn tay lông lá của Trung Quốc quả đã thọc sâu và thô bạo!
Đầu tiên có lẽ phải kể đến vụ xử nhà luật học trẻ Lê Chí Quang vào ngày 08-11-2002, đúng hôm khai mạc Đại hội đảng CS Trung Quốc lần thứ 16. Đây là món quà kính tiến và tạ lỗi với Đại ca vì đã lỡ để cho một tên nhãi nhép công bố khắp thế giới bài “Hãy cảnh giác Bắc Triều” viết cách đó một năm. Tiếp đến là việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, nghệ sĩ, dân oan vào các ngày 09, 16, 23-12-2007 chống Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba quần đảo biển Ðông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt; việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên ngày 19-01-2008 để tưởng niệm 34 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, khiến cho 58 lính hải quân VNCH tử trận vì bảo toàn lãnh thổ; việc dẹp cuộc biểu tình ngày 29 và 30-04-2008 của sinh viên học sinh và giới dân chủ phản đối việc rước đuốc Olympic Bắc Kinh qua Sài Gòn; rồi việc dẹp cuộc biểu tình ngày 06-12-2008 của thanh niên sinh viên trước Đại sứ quán lẫn Lãnh sự quán Trung Quốc để phản kháng nước này đã chi gần 30 tỉ Mỹ kim hầu khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền VN.
Tiếp đến là một loạt bắt bớ các nhà dân chủ có tinh thần chống Trung Quốc, mà đầu tiên là luật sư Lê Công Định hôm 13-06-2009, một ngày sau chuyến viếng thăm của Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trung Cộng. Ngoài lý do gọi là “tuyên truyền và hoạt động chống nhà nước, vi phạm điều 88” của vị luật sư này, còn có lý do sâu xa là ông đã dự định kiện ra quốc tế việc Tàu xâm phạm hải phận Việt và cấm ngư dân Việt đánh cá trên biển Đông.
Vụ bắt hai nhà dân chủ, một già một trẻ là Trung tá Trần Anh Kim và thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung ngày 07-07 cũng không ngoài lý do sâu xa là chống Trung Quốc. Chính bản tin báo Công an mạng cùng ngày viết: “Bên cạnh đó [việc thành lập Tập hợp thanh niên Dân chủ và tham gia đảng Dân chủ Nhân dân], Trung còn kích động sinh viên, thanh niên biểu tình gây rối tại Hà Nội và TP HCM trong các ngày 9, 16, 23-12-2007 và ngày 29-04-2008”. Nhà dân chủ trung tá Trần Anh Kim là một cựu chiến binh và cựu chỉ huy trong trận chiến biên giới với Trung Quốc ngày 17-02-1979, một cuộc chiến mà Hà Nội nay không muốn làm lễ kỷ niệm. Chính ông đã viết bài “Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc sau 30 năm ! Kỷ niệm 30 năm chiến đấu, chiến thắng quân Bành trướng bá quyền Bắc Kinh”.
Trước vụ Trần Anh Kim hai tuần, kỳ họp thứ 5 của Quốc hội CSVN khóa XII -bế mạc hôm 20-06 với lời kết luận của chủ tịch Nguyễn Phú Trọng là QH đồng thuận về việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên- đã như một gáo nước lạnh dội lên những bức thư cảnh tỉnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng lãnh, những phản biện đầy tinh thần trách nhiệm của các nhà khoa học VN trong lẫn ngoài nước, những chữ ký nơi bản kiến nghị của trên 2000 nhà trí thức ái quốc, những lời phát biểu thẳng thắn của vài đại biểu Quốc hội trước sự mất còn của dân tộc trước hiểm họa Bắc triều. Bộ Chính trị Việt Cộng vẫn như con rối dưới sự điều khiển của bàn tay lông lá Trung Cộng, một bàn tay sắt thủ sẵn nhiều hăm dọa tiết lộ những bí mật động trời của đảng CSVN, bọc trong một cái găng nhung là hàng trăm triệu đôla tọng vào miệng các thành viên bộ Chính trị, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng, theo như dư luận đồn đoán.
Đến ngày 29-06, một vụ đàn áp làm giới Phật tử ở trong lẫn ngoài nước kinh ngạc đã xẩy ra tại Tu viện Bát Nhã thuộc xã Dambri, tỉnh Lâm Ðồng. Gần 400 tăng ni và cư sĩ đang tu tập ở đó đã bị cắt điện cắt nước, phá cửa phá nhà, chửi bới đánh đập và có thể bị đuổi khỏi tu viện bởi nhà cầm quyền phối hợp với Phật giáo quốc doanh, công an cảnh sát và đầu gấu côn đồ. Một trong những lý do sâu xa là người sáng lập tu viện, thiền sư Nhất Hạnh, từng tuyên bố tại Roma đầu năm 2008 những lời ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng (03-2008) khi được báo chí phỏng vấn. Ông cũng từng đề nghị ban tổ chức đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc nên mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới VN tham dự lễ này. Những ý kiến đó khiến Bắc Kinh nổi giận. Nên đến tháng 5-2008, khi về dự lễ Vesak thì nhà cầm quyền Trung Quốc đã yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội trục xuất ông.
Đầu tháng 7, Hồ Tỏa Cẩm, Tham tán Kinh tế Thương mại, thừa ủy quyền đại sứ Trung Quốc tại VN, đã ngang nhiên “nhắc nhở” Hà Nội (mà Hà Nội vẫn im thin thít) về việc một số chuyên viên và cơ quan truyền thông VN (trong cuộc tọa đàm hôm 16-06 tại tòa báo VietNamNet) đã dám chỉ trích chất lượng hàng hoá Trung Quốc, và yêu cầu Hà Nội khuyến cáo nhân sự này. Ngoài ra, trong lúc Bắc Kinh đang bị thế giới lên án gay gắt vì đã giết chết 156 người và làm bị thương 1000 người Uyghur tại thủ đô Urumqi, Tân Cương hôm mồng 5-7-2009 thì Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao, lại tuyên bố rằng VN tán đồng các giải quyết của Trung Quốc tại đó.
Tất cả những sự kiện trên đây, và còn vô vàn sự kiện khác nữa, cho thấy CSVN đã và đang vuốt đuôi Trung Quốc, kể cả những vuốt đuôi mang tính nhục nhã và tai hại, do chỗ bàn tay lông lá của Trung Quốc không bao giờ ngưng động đậy trên đầu và sau lưng các lãnh đạo CSVN.
Ông Ngô Đình Nhu lúc sinh tiền từng nói : “Tiêu diệt chế độ này [Đệ I Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm] thì chỉ sau khoảng một giáp, Việt Cộng sẽ thắng. Sau đó chừng vài giáp, một là hết Việt Cộng, hai là Trung Cộng sẽ thôn tính VN”. Phải chăng lời tiên tri ấy sắp thực hiện ? Trước tình thế nguy cấp này, phận sự của mọi người dân Việt, trong đó có các tín đồ, là phải chống nội thù bán nước trước để chống ngoại thù cướp nước sau. Dù tôn giáo không “thay thế các hữu trách chính quyền”, nhưng trong trường hợp này (như tại Đông Âu và Liên Xô), phải góp công “thay thế cả một chính quyền” bất chính, bất lực và bất nhân, thưa Quý vị lãnh đạo tinh thần, bằng không thì sẽ mắc tội với Tổ quốc, Dân tộc!.

Cái hèn đáng khinh bỉ nhất của Cộng đảng VN là vì khiếp nhược

Cái hèn đáng khinh bỉ

Kể từ tháng 4 năm nay, thiên hạ (nhất là các công dân mạng) xôn xao về cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” đầy dũng cảm của nhạc sĩ Tô Hải. Tiếp đến, qua “Tuần kí số 11 ngày 05-07-2009”, cũng lại nhạc sĩ này bàn về cái hèn, trong đó ông phân loại: nào là cái hèn của báo chí, cái hèn của kẻ yếu, cái hèn giả vờ, cái hèn bất đắc dĩ…. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi, cái hèn tồi tệ nhất, đáng kinh tởm nhất, đáng khinh bỉ nhất là cái hèn được diễn tả qua thành ngữ “đánh kẻ dưới ngựa, bắn người sau lưng”. Nghĩa là cái hèn của kẻ có quyền lực trong tay (quyền lực chính trị, quyền lực tinh thần, quyền lực vật chất…), nhưng vì những toan tính xấu xa tàn ác, cuồng vọng thống trị độc tài, mà đã làm lắm điều bất nhân thất đức đối với những ai nằm dưới quyền của họ; hoặc vì khiếp nhược trước một quyền lực lớn hơn, họ lại phản ứng -theo lối mặc cảm bù trừ- bằng cách tàn hại những kẻ đang bị họ thống trị. Trên thực thế lịch sử, điều này được thấy rõ ràng trong các chế độ cộng sản.

Sau khi cướp được chính quyền (có lúc bằng gian manh xảo quyệt như tại Nga và Việt Nam), các đảng cộng sản đều che đậy thói đê hèn dưới mỹ từ “bạo lực cách mạng” hay “chuyên chính vô sản”, nghĩa là từ nay họ không thực thi quyền lực bằng lập luận dựa trên chân lý, bằng thuyết phục dựa trên công lý và thành quả, theo như lương tri và lương tâm thông thường của con người, mà bằng đàn áp với bạo lực hành chánh hay bạo lực vũ khí. Họ trị nước thay vì bằng cơ cấu tam quyền phân lập thì lại bằng tam quyền phân công, biến Quốc hội -tạo ra sau những cuộc bầu cử đầy gian trá và áp bức- thành lũ gia nô chỉ biết đưa ra hoặc sửa đổi các luật lệ theo ý đảng, có lợi cho đảng; biến Pháp viện, tòa án -tạo ra từ những kẻ thông thạo luật rừng, luật đảng hơn là luật pháp, luật lương tâm- thành lũ đười ươi (từ của Lm Nguyễn Văn Lý) chỉ biết xét xử và tuyên phạt với các “bản án bỏ túi” nhận từ đảng bộ hay từ chính trị bộ; biến cả hệ thống Chính quyền -tạo ra từ các đảng viên hồng hơn chuyên, giỏi hoạnh họe tham nhũng thay vì phục vụ- thành đám tay sai nô bộc chỉ biết mù quáng thực thi mệnh lệnh của đảng ủy địa phương hay trung ương. Đảng CS còn hèn đến độ biến quyền lực công luận (báo chí) thành những cái loa tuyên truyền ầm ĩ và lếu láo, biến quyền lực bảo an (quân đội và cảnh sát) thành những công cụ mù quáng và tàn bạo, biến quyền lực tinh thần (giới trí thức, giới tu sĩ quốc doanh) thành những con hến ngậm miệng hay những con vẹt lải nhải bài tụng ca. Trong hoàn cảnh ấy, toàn thể nhân dân chỉ còn là kẻ dưới ngựa cho đảng đánh xuống, chỉ còn là người đưa lưng cho đảng bắn vào.

Bên cạnh cái hèn bằng sử dụng bạo lực nói trên, cộng đảng VN còn tỏ ra hèn bằng thái độ khiếp nhược trước các cộng đảng cầm quyền lớn hơn mạnh hơn, như Liên xô hay Trung quốc chẳng hạn. Hồ Chí Minh, dù biết cuộc cải cách ruộng đất ở Liên xô và Trung quốc đầy huyết lệ và thất bại, nhưng vì khiếp sợ Stalin và Mao, đã vẫn xin chỉ thị từ hai tên đồ tể này (xem lá thư gởi Stalin ngày 31-10-1952). Cũng năm 1952, vì hèn trước các cố vấn và chuyên viên cải cách của Trung cộng, Hồ Chí Minh đã để mặc cho tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên kết án tử hình bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của đảng, người đã từng che chở, nuôi ăn chẳng những chính ông mà hầu hết các nhà lãnh đạo đảng. Cũng vì hèn mà Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958, lấy của Việt Nam Cộng Hòa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để dâng trên giấy cho ông anh vĩ đại, khiến ông anh này cứ mãi dựa vào đó để khẳng định chủ quyền. Cái hèn này đã lôi theo những cái hèn khác đối với Trung quốc, biểu lộ qua Hiệp định biên giới Việt-Trung ngày 30-12-1999 và Hiệp định lãnh hải Việt-Trung ngày 25-12-2000, dâng ngon ơ cho Tàu cộng hàng chục ngàn km2 đất và biển của Tiên tổ, qua Tuyên bố Việt-Trung tháng 12-2001 và tháng 06-2008, rồi qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007 cho phép TQ thực hiện dự án bauxite đầy nguy hiểm về văn hóa, sinh thái và an ninh trên vùng đất Tây Nguyên. Mới đây nhất, cái hèn của CSVN biểu lộ qua việc ký kết dâng Ải Nam quan và nhiều phần đất ở biên giới phía Bắc ngày 23-02-2009 với rất nhiều màu sắc và nghi lễ rộn ràng. Nhưng "vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu"! Và với mặc cảm bù trừ, CSVN quay lại cướp bóc đất đai của nhân dân và các tôn giáo cũng từ bấy nhiêu năm, hành hạ bỏ tù những ai đòi lại tài sản mình đã sở hữu chính đáng, dẹp tan các cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, dân oan, nhà dân chủ phản đối Trung quốc xâm lược.

Cái hèn vì khiếp sợ trước một quyền lực lớn hơn khác là quyền lực tinh thần (nhưng rồi phản ứng lại bằng bạo lực vũ khí và bạo lực hành chánh) đã biểu lộ lần đầu tiên -xem ra thế- qua vụ luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức xuất chúng đương thời của Việt Nam. Sau khi mời luật sư cho ý kiến về cuộc Cải cách Ruộng đất vừa hạ màn ngày 20-07-1956 (với bài “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc ngày 30-10-1956), Hồ Chí Minh đã hèn mạt báo thù bằng cách đày đọa cho đến chết nhân tài đặc biệt, nhân sĩ ưu tú ấy. Tiếp theo đó là một trò hèn khác nhắm vào các trí thức văn nghệ sĩ có khát vọng tự do dân chủ và đầu óc suy tư độc lập vốn đã lên tiếng phê bình về những sai lầm tàn ác trong CCRĐ cũng như về chính sách khống chế kiểm soát thành phần trí tuệ của Dân tộc. Trò hèn của những tên đa phần thấp kém về tri thức và nhân cách này (trong đảng CS) đã gây ra thảm kịch mang “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm”! Vụ Mậu Thân với việc phản bội cam kết hưu chiến, giết hại dã man dân lành, loại trừ đồng đội trong “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” cũng là một trò hèn mạt của CS vốn còn ghi đậm nét trong lịch sử dân tộc.

Thời gian gần đây, kể từ thế kỷ XXI, với việc nổi dậy của nhân dân đủ mọi tầng lớp, việc cất tiếng của tôn giáo đủ mọi giáo hội, việc đứng lên của các nhà đối kháng đủ mọi thành phần, việc lấn lướt ngày càng ngang ngược của ngoại thù phương Bắc, cái hèn của đảng CSVN càng bộc lộ một cách chói chang. Bằng chứng là những cuộc đàn áp dã man tại Thái Hà (Hà Nội), Tam Tòa (Quảng Bình), Bát Nhã (Lâm Đồng) với sự cấu kết giữa công an với bọn côn đồ (chưa hẳn là xã hội đen) mang tên “quần chúng tự phát” và sự đổ lỗi đê tiện cho đám công cụ tay sai này. Bằng chứng là những cuộc bắt bớ tùy tiện, xét xử vô luật, kết án với tội danh vu vơ những ai tranh đấu cho công lý và tự do. Điển hình là những bức ảnh quanh và trong phòng xử án các nhà dân chủ, mà đặc biệt là hình linh mục Lý bị bịt miệng và trói tay trong phiên tòa ô nhục tháng 3-2007 tại Huế. Để bảo đảm sự chiến thắng của đảng trong những phiên tòa này, CS đã đê hèn tước mất mọi quyền cơ bản của các bị can: không cho họ có luật sư cố vấn khi bắt đầu tiến trình thẩm vấn, để công an chấp pháp mặc sức khủng bố tinh thần và đưa vào tròng bẫy, không cho bị can được quyền thuê mướn những luật sư vừa ý, hoặc có cho thì chẳng để các luật sư đủ thì giờ gặp gỡ bị can, đủ điều kiện thu thập tài liệu, không cho các luật sư được trình bày cách tự do và đầy đủ bài bào chữa, hoặc có cho thì công tố và quan tòa vẫn chẳng thèm nghe, không cho thân nhân bạn hữu hay báo chí quốc tế tham dự phiên tòa, vì muốn tước mất sự trợ lực tinh thần mà bị can có quyền được hưởng (báo chí nếu có mặt thì bị nhốt trong phòng kín, theo dõi mọi chuyện qua màn ảnh truyền hình). Ở đây xin mở một dấu ngoặc để nói về cái “hèn” của nhiều bị can vốn đã nhận tội và xin khoan hồng khi còn đang giai đoạn thẩm vấn, kể từ vụ Trộm cổ vật ở Bắc Giang năm 2006, vụ Nguyễn Phong+Nguyễn Bình Thành năm 2007, đến vụ Lê Công Định tháng 6-2009, và gần đây nhất là vụ Tam Tòa với bị can Nguyễn Quang Trung tháng 7-2009. Nhiều người đã vội phê phán họ “đầu hàng quá nhanh” và kết án họ “tỏ ra quá hèn”. Xin lưu ý rằng lúc “nhận tội”, họ đang ở trong giai đoạn thẩm vấn, giữa bàn tay công an, vốn nổi danh sắt máu và nham hiểm, đang bị khủng bố và tra tấn về tinh thần (có khi về thể xác), như bị phong tỏa khỏi mọi liên hệ, nhất là thân nhân gia đình và luật sư cố vấn, như bị thẩm vấn đêm khuya, trong tình trạng mất ngủ khiến ý chí kiệt quệ, như bị buộc xem những bài báo công cụ mạt sát lên án họ… Đó là chưa kể công an và báo chí chẳng bao giờ được đóng vai công tố hay thẩm phán. Thành ra không thể và không nên kết án các bị can nói trên là “hèn”.

Trở lại với cái hèn của CSVN. Cái hèn này thời gian gần đây bộc lộ rõ nét qua vụ Trung cộng ngày càng ngang ngược trên biển Đông và quanh Hoàng Trường Sa quần đảo, ngày càng cấm cản, bắt bớ, phá hoại, tàn sát dân Việt đánh cá trên vùng biển nước Việt. Trước những thảm cảnh của dân lành, của đồng bào, lực lượng hải quân thì trơ mắt đứng nhìn, lãnh đạo cộng sản thì ngậm miệng làm thinh, thậm chí còn xun xoe nịnh bợ hay cung cúc van nài đại ca nước lớn, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao thì vẫn cứ một điệp khúc nhàm chán: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền trên vùng đảo…., báo chí công cụ thì hoặc câm như hến, hoặc chỉ nói vu vơ là “tàu lạ”. Thật tự cổ chí kim và từ đông sang tây, chưa có một nhà cầm quyền nào hèn mạt đến thế!!

Cũng phải nói đến cái hèn của những kẻ đang nắm quyền lực tinh thần và đang có quần chúng sau lưng, bên dưới. Trước nguy cơ của đất nước vì mất nhiều vùng ở biên giới, ngoài hải phận, trên Tây Nguyên, trước thảm nạn chức sắc lẫn giáo đồ bị sách nhiễu, hành hung, điển hình là trong vụ Thái Hà và nhất là vụ Tam Tòa và vụ Bát Nhã gần đây, nhiều lãnh đạo tôn giáo cao cấp vẫn cứ câm như hến trước cường lực chính trị, vì sợ mất đi những ân huệ Nhà nước ban cho, đồng thời lại tìm cách bịt miệng bề dưới của mình, làm tê liệt sức mạnh tiềm tàng vô song của Giáo hội (x. bài “Tam Tòa? Chuyện nhỏ!” của Lm Nguyễn Ngọc Tỉnh và bài “Niềm đau vô tận” của Nguyên Chơn).

Như vậy, cái hèn đích thực tại Việt Nam hiện nằm nơi nhiều kẻ đang nắm quyền lực chính trị và quyền lực tinh thần, chứ không phải nằm nơi đám dân hèn đâu!!!

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2009

Hồ Chí Minh đã chủ trương “giết tiềm lực” là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản

Gs Trần Gia Phụng: TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH ?
By HoangHac • Jul 20th, 2009 • Category: Trần Gia Phụng
TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH ?, trong khi cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:
Thứ nhất: Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)
Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân tài không theo VM.
Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng đại về kháng chiến, về Việt Minh.(Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng những người Pháp nầy là người của phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.)
Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy Liệu.) Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu, “xử lý thích đáng” có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.
Thứ hai: Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì :
1) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?”[Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
2) Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ “(giết một người, mười ngàn người sợ).
3) Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4) Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l ‘ Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.
5) Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.
Cũng trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.]
Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945. (Những người khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đều đã từ trần.) Phạm Quỳnh là một nho sĩ chính trực nên ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh.( Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185.) Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?
Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về những hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng những không thể chấp nhận và cũng không thể dung thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.
Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày 6-9-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện trung ương của VM và của đảng CSĐD.
Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là lời kể của bà Thức:”…Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!…Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình.)
Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường cổ điển của VM: “Mất mùa là tại thiên tai,/ Được mùa là tại thiên tài đảng ta.)
Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy thì không thể nói là Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.
Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân…Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”
Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng của cộng sản là phản động, phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương mình thương một thương ông thương mười”, thì không bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160.), và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi. Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông…”. (Thư ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gời Louis Marty, Hành trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề trang.)
Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông. Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ …Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.
Đây là điều cần phải được tách bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác…
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN BIẾN CON NGƯỜI THÀNH SÚC VẬT
SATURDAY, 13. JUNE 2009, 13:35:04
Súc vật hóa con người
Ngô Nhân Dụng
http://www.nguoi-viet.com

Trong Hồi Ký của Một Thằng Hèn, nhạc sĩ Tô Hải tố cáo “Âm mưu súc vật hóa con người được tiến hành rất có tổ chức” của đảng Cộng Sản ở Việt Nam, “là tội lớn thứ hai sau tội giết người.” Vì nó biến đổi hệ thống giá trị của nhiều thế hệ người Việt khiến cho bây giờ họ thấy “không có gì quý hơn đồng tiền!”. (trang 398)

Vì không được cơ hội bảo vệ phẩm giá con người cho nên, Tô Hải kể, “Cha con, vợ chồng sẵn sàng kiện cáo, tranh cướp, thậm chí đâm chém nhau” chỉ vì muốn giành nhau một mối lợi. Ông nêu thí dụ một nhà thơ nổi tiếng đã kiện con trai của mình để giành lại một mảnh vườn trước căn phòng của một thi sĩ bạn thân đã chết.

Nền tảng đạo đức của nước ta bắt đầu bị phá từ thời cải cách ruộng đất, bây giờ thuật lại nhạc sĩ vẫn còn thấy xấu hổ. Phương pháp đấu tố của Mao Trạch Ðông không chỉ nhắm giết người mà còn có mục đích hủy hoại những quy tắc đạo lý cổ truyền: “Thử hỏi trước kia ở đất nước ta có thời đại nào làng xóm giết nhau, cha bị con đấu tố, vợ chỉ mặt chồng giữa sân đình gọi là ‘thằng kia!’ rồi đưa ra đầu làng bắn bỏ hay không?”( trang 235)

Vì sợ hãi guồng máy độc tài cho nên, Tô Hải thú nhận, “Tất cả chúng tôi đều sống giả, sống bằng cái đầu và trái tim của người khác... chính tôi, một nạn nhân đồng thời cũng là một tội đồ... là kẻ cố bám lấy cuộc sống, cố nuốt mọi cục phân thối hoắc... mà vẫn làm ra vẻ tươi cười.” (235)

Nhà văn Solzhenitsyn từng nhận xét là một chế độ độc tài cần hai thứ khí cụ: áp bức và dối trá, có cái này phải có cái kia, thiếu một cái không được. Người nào đã chọn cai trị dân theo lối độc tài thì hệ quả tất nhiên là người đó phải dùng cả hai khí cụ: Phải khủng bố, áp bức dân. Và phải dựng lên một bộ máy dối trá, che đậy, lừa bịp cả thế giới.

Ðấu tố, giết người, là những phương cách tiêu diệt những thành phần khó kiểm soát, đồng thời cũng đe dọa những người khác. Nếu không dụ dỗ được thì ép buộc các văn nghệ sĩ phải “làm ra vẻ tươi cười” đóng vai trò “cung văn,” “minh họa,” đó là guồng máy dối trá giúp bảo vệ chế độ.

Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam không sáng chế ra những phương pháp cai trị đó. Chính họ đã học được từ các bậc thầy Mao Trạch Ðông, Stalin và Lenin. Người học trò giỏi của những “đại sư quốc tế” này là Hồ Chí Minh. Ai cũng biết Hồ Chí Minh vẫn đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như các vị thánh sống. Ông Hồ nói, theo Nguyễn Văn Trấn kể lại, “Bác cháu chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nào nhầm được.” Ông cũng nói, “Những điều gì cần viết đã có Chủ Tịch Mao Trạch Ðông viết cả rồi, tôi không cần viết sách nữa.”

Nhưng các bài học quan trọng nhất giúp Hồ Chí Minh thành công trong việc chiếm chính quyền ở nước ta không phải do sách vở dạy mà do kinh nghiệm sống của chính ông. Ông Hồ đã có mặt ở Liên Bang Xô Viết trong những năm chế độ này thi hành các chính sách đàn áp tàn bạo cũng như những vụ xử án dối trá chưa bao giờ thấy trong lịch sử.

Bài học lớn mà Hồ Chí Minh học được ở cả Liên Xô lẫn Trung Quốc là trong lúc thời thế tao loạn thì kẻ nào tàn ác nhất cuối cùng sẽ thắng. Bá thuật sẽ thắng vương đạo. Ðạo đức, nhân nghĩa, chỉ để nói, để tuyên truyền mà thôi; nếu lấy nhân nghĩa ra dùng thì cũng chỉ nên dùng trong thời bình. Còn trong thời loạn, ai dám giết nhiều người kẻ đó sẽ làm chúa thiên hạ. Hồ Chí Minh đã là một Tào Tháo của nước Việt Nam, lại được Stalin đào luyện những bá thuật quốc tế mới do Lenin truyền dạy nữa.

Nhóm Bôn Sơ Vích và Lenin đã thắng trong cuộc nội chiến Nga 1917 - 1920 vì họ dám giết người tàn bạo nhất so với các phe khác. Chế độ Cộng Sản mà Lenin dựng lên đã tồn tại được cũng vì sau khi cướp quyền được rồi họ vẫn dám giết hết những người có ý kiến chống đối. Nếu quá tay giết cả những người không chống mình cũng không sao! Ðó là quy tắc luân lý mới của Lenin nhưng cũng là một quy tắc xử sự của Tào Tháo: Thà mình phụ người còn hơn người phụ mình! Stalin theo đúng chính sách đó để củng cố quyền hành cá nhân, bằng cách tiêu diệt ngay các đồng chí cũ có thể cạnh tranh với mình. Hồ Chí Minh có mặt ở nước Nga trong những năm khủng bố nặng nề đó, ông đã nhập tâm. Và sau này ông lại học được thêm các phương pháp của Mao Trạch Ðông, ông đủ thông minh để thấy Mao còn hay hơn Xít vì thường giết người mà không cần dùng đến đội hành quyết. Ðem người ta ra đấu tố, bỏ đói cho tới chết; dùng “quần chúng nhân dân” làm quan tòa buộc tội, xử tử hình; cùng lúc đó dùng đội ngũ văn công ca ngợi tội ác của mình; đó là những phương pháp Mao Trạch Ðông đã dùng rồi được Hồ Chí Minh áp dụng một cách trung thành.

Người ta thường chú ý đến những tội ác của Stalin mà không chú ý đến thời Lenin sống ngắn ngủi. Trong cuốn sử The War of the World, Niall Ferguson chép một bức thư mà Lenin gửi cho các người lãnh đạo Bôn Sơ Vích ở Penza, ngày 11 Tháng Tám năm 1918, ra lệnh họ phải giết những “phú nông” (kulak) để thực hiện việc cướp thóc lúa nuôi Hồng quân,
“Các đồng chí! Bọn kulak nổi lên phải bị đè bẹp không thương xót... Phải hành động để làm gương cho chúng thấy. 1) Treo cổ (tôi nhấn mạnh, treo cổ để mọi người phải trông thấy) ít nhất 100 tên kulak hút máu người. 2) Công bố tên họ chúng nó. 3) Lấy hết thóc lúa của chúng nó... Phải làm sao để trong vòng 100 dặm chung quanh mọi người đều phải thấy, phải biết chuyện, phải run sợ, và kêu lên với nhau: Họ đang đi giết bọn kulak và họ sẽ đi giết hết bọn kulak...
Tái Bút: “Hãy dùng các đồng chí cứng rắn nhất!” (trang 150)

Không lãnh tụ nào trong cuộc nội chiến ở Nga dám ra lệnh cho phe mình giết nhiều người như đám Bôn Sơ Vích dám làm. Ferguson tính là không kể các người chết vì chiến tranh, “trong những năm từ 1918 đến 1920 có 300,000 vụ hành quyết vì lý do chính trị. Không phải chỉ có những người thuộc các nhóm đối nghịch bị giết mà cả những người Bôn Sơ Vích cũ dám cả gan phản đối đám lãnh tụ mới.” (trang 152)
Dưới thời Lenin, trại lao động tập trung đầu tiên đã được lập ra, đến năm 1920 đã có mấy trăm trại tập trung, làm mẫu cho những trại giam sau này mà Stalin và Hitler bắt chước. Chính tổ chức mật vụ (Cheka) nảy ra sáng kiến “cải tạo” các tù nhân bằng lao động khổ sai. Trại Solovetsky lập ra năm 1923, sang năm 1924 được chính thức gọi là trại cải tạo. Với sáng kiến của Naftaly Aronovich Frenkel, một tù nhân người gốc Do Thái được tuyển để đóng vai cai tù, trại này có chính sách cho những người tù khỏe mạnh ăn no, còn người yếu cho chết đói không sao. Theo Ferguson thì dưới thời Stalin có ít nhất 18 triệu người, đàn ông, đàn bà, và trẻ con đã đi qua các cổng trại tập trung cải tạo (Mao Trạch Ðông có sáng kiến gọi là Lao Cải: Cải tạo con người bằng công việc lao động). Nhưng con số những người đã bị công cuộc tập thể hóa nông nghiệp của Stalin buộc vào đường cùng phải chết đói còn cao hơn nữa.

Ðối với các vị Chúa Ðỏ thì những cái chết đó không có gì đáng kể. Một cán bộ của Stalin giải thích cho cấp dưới nghe về cuộc đấu tranh giữa đảng Cộng Sản và các nông dân không chịu vào tập thể, “Năm nay là một năm đấu sức giữa chúng ta với chúng nó coi bên nào mạnh hơn. Phải qua một trận đói chúng mới biết ai làm chủ. Hàng triệu người đã chết, nhưng chương trình tập thể hóa nông nghiệp sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng ta đã thắng!” (trang 204)

Hồ Chí Minh đã chứng kiến những cảnh đó khi tới Nga lần đầu để được đào luyện trong trường cán bộ quốc tế của Stalin, với vai trò đem chủ nghĩa Cộng Sản gieo rắc khắp nơi trên thế giới. Không phải Lenin hay Stalin nói, mà chính Trotsky đã nói câu này, “Con đường dẫn tới Paris và London đi qua Afghanistan, vùng Punjab và Bengal (Ấn Ðộ).” Dù Stalin đã giết Trotsky nhưng ông ta vẫn theo tấm bản đồ bành trướng đó. Trong số các cán bộ được Stalin đào tạo, hai người thành công nhất là Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn và Hồ Chí Minh ở Việt Nam.

Cho nên chúng ta không ngạc nhiên nếu Hồ Chí Minh đã sử dụng tất cả các phương pháp dùng bạo lực và dối trá mà Stalin đã thử dùng rất có hiệu quả trong việc cướp quyền hành và củng cố quyền hành. Các phương pháp khủng bố bằng bạo lực ở nước ta có thể nói đã giảm bớt cường độ so với các gì Stalin đã làm, vì văn hóa phong tục Việt Nam khác với tác phong của người Nga. Về bạo lực, chính Mao Trạch Ðông mới là khuôn mẫu mà Hồ Chí Minh đã noi theo. Nhưng về mặt dối trá thì giữa Mao và Stalin không khác gì nhau. Việc sử dụng các văn nghệ sĩ vào việc đánh bóng chế độ, ca ngợi lãnh tụ đã được Stalin dùng trước, sau đến Hitler và Mao Trạch Ðông. Hồ Chí Minh đã áp dụng giống hệt ở Việt Nam.

Chính những hành động đó là cái Nhạc sĩ Tô Hải gọi là “súc vật hóa con người.”

Khi một chế độ độc tài chỉ dùng bạo lực để giết chóc, đe dọa dân, khủng bố dân, thì họ độc ác nhưng vẫn chưa phi nhân.

Có những chế độ không những độc ác mà còn tìm cách hạ thấp nhân phẩm của mọi người dưới quyền, khiến cho họ trở thành hèn hạ, mất tư cách. Ðó mới là biến con người thành “súc vật” thật sự. Tất nhiên, muốn làm cho tất cả mọi người trở thành hèn hạ, đê tiện thì trước đó phải dùng đến các biện pháp tàn ác để đe dọa. Nhưng cái tội biến con người thành những kẻ hèn hạ, mất cả khái niệm về nhân phẩm còn kinh khủng hơn nữa. Tô Hải cho cái tội “súc vật hóa con người” đứng hàng thứ hai sau tội giết người. Có thể đổi lại cũng được. Tội giết người không nặng bằng, nếu vẫn để cho các nạn nhân ngẩng đầu lên chết xứng đáng làm người. Còn hơn bắt người ta sống như súc vật.

NHUNG THU DOAN CUA HO CHI MINH

Thu doan GIET TIEM LUC cua Ho Chi Minh theo menh lenh cua Nga Tau: am sat nhan tai, thu tieu doi lap, thanh trung noi bo, muu hai van nhan nham danh lay su cai tri doc tai

Thu doan GAY KINH HOANG theo tung dot tham sat nhan dan nham tao su hoang mang ghe ron, so chet den tot do


Thu doan GAY CHIA RE-HAN THU giua cac thanh phan dan chung de triet tieu su doan ket, tao ra su so hai trien mien

Thu doan THEO DOI- TO CAO-CONG KICH NHAU nham tao them thanh phan tay sai sat mau, nguoi ngay thang tro nen hen nhat im lang vang loi

Thu doan HUY DIET LONG TU TRONG-DANH MAT DANH DU nham dao tao nhieu the he hen ha biet vang loi, tuan lenh theo ban nang, chap nhan cuoc song vo dao duc

Thu doan NAM LUONG THUC, CHAT DOT, TIEN,NHU YEU PHAM, Y DUOC, nhu mot bien phap canh cao bat cu ai muon chong lai Dang cong C

Thu doan KIEM SOAT DE DOA CHO DEN GIAM TU TRA TAN HOAC GIET TRONG TU NHUNG AI NOI SU THAT, DOI HOI TU DO

Thu doan kiem tra NOI CU NGU, DI LAI, LOI NOI, TU TUONG, LAP NHOM, BAI VIET, NOI SU THAT LICH SU DAN TOC, AI DAM VACH MAT KE DOI TRA

Thu doan HANH HA TRE EM LUC CON DI HOC , mot biet phap lao dong cuong buc, day doa tre tho, va bi mat cua thu doan nay la huan luyen tinh than VANG LOI TU THUO NHO cho cac the he CS mai sau: Moi hoc sinh cap 2, hang tuan phai mang theo dung cu lam Nong nhu Cuoc, Rua..thuc hien lao dong chan tay ngoai dong, trong khu dat hoang de chat cay, trong trot….Khi lon len, he khi nao nghe bon CS ra lenh la cac chau nho nay se vang loi ma khong biet tai sao

Thu doan PHA HUY LONG KINH TRONG bang cach buoc cac dong nghiep phai phe binh chi trich xep loai cong tac truoc ca tap the. Nguoi xep loai biet TO CAO, nguoi bi xep loai lam quen voi su nhuc nha, ca hai deu hoc duoc thu doan khinh bi lan nhau, boi nho nhau, va PHA HUY LONG TU TRONG KINH TRONG, DUNG LA CHE DO LOAI VAT CONG SAN