Chủ Nhật, 9 tháng 1, 2011

VIET CONG CUI DAU KHI TAU CONG NGAN SONG MEKONG, HONG HA

TRUNG CONG PHA HOAI VIET NAM BANG HE THONG DAP NGAN NUOC SONG HONG HA, MEKONG
Mường Giang

Trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn quật cường chống trả lại mọi cuộc xâm lăng của ngoại bang, trong đó giặc Tàu phương bắc. Đất nước được vẹn toàn trên hai mươi thế kỷ và tồn tại tới hôm nay là do công đức dựng và giữ nước của tiền nhân bao đời. Cho nên đừng thấy lạ khi tìm hiểu về tôn giáo đích thực của người Việt cả nước, mà dân tộc gọi là đạo Việt, thờ kính Đức Phật, Các Anh hùng liệt nử VN như Hai bà Trưng,Đức Thánh Trần, Lê Lợi, Quang Trung.. và Thần Nông. Tổ tiên ta bao đời ngoài võ công hiển hách để bảo vệ lãnh thổ, bản sắc tự chủ cũng như nền độc lập của mình, còn biết cách mềm mỏng kết thân với kẻ thù để hoà giải hiềm khích và hấp thụ những tinh hoa của Hán tộc. Nhờ biết người, biết ta, vừa can đảm anh hùng lại có óc thực tiển. Tóm lại đây là chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn ngoan của người Việt, mà các vi minh quân mọi thời đem áp dụng, để vừa đánh bại ngoại xâm, vừa giữ vững độc lập cho nước nhà trong danh dự.

Khác với tiền nhân trong suốt dòng lịch sử, rất khôn khéo và uyển chuyển mỗi lần chiến thắng kẻ thù. Trái lại VC từ trên xuống dưới, hèn hạ xảo quyệt, sớm đầu tối đánh, lúc nào cũng lừa bịp thiên hạ để tiên hạ thủ vi cường. Vì vậy cũng đừng lấy làm lạ, khi biết năm 1958, Hồ ra lệnh cho Phạm văn Đồng, quyền thủ tướng nước, công nhận hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng để đổi lấy mọi thứ cần thiết cho cuộc xâm lăng miền Nam. Thế rồi khi cưởng chiếm được VNCH vào ngày 30-4-1975, VC liền phản thầy bằng cách tuyên bố tức khắc chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa,Trường Sa mà trước đó vào năm 1974, đã giúp giặc Tàu tàn sát hải quân VNCH để cưởng đoạt gấm vốc của tổ tiên Hồng Lạc.

Trên đất Bắc, từ năm 1954 tới nay, vì quyền lợi riêng tư mà đảng cọng sản hoặc nhắm mắt làm ngơ hay đã đồng thuận dâng hiến hoặc bất tài để cho Trung Cộng công khai chiếm đoạt nhiều đất đai của Việt Nam dọc theo biên thuỳ Hoa Việt. Trong sự mất mát này, quan trọng bậc nhất vẫn là ẢI NAM QUAN, với địa thế hiểm trở có một không hai, nằm trên con đường độc đạo Quảng Tây-Hà Nội.

'Quỷ môn quan,quỷ môn quan
thập nhân khứ, nhất nhân hoàn.'

Nơi mà bao đời tiền nhân ta đã tạo nên những chiến công hiển hách vào năm 981 (STL),Thập đạo tướng quân Lê Hoàn bêu đầu Hầu nhân Bảo. Năm 1076 Thân cảnh Phúc chận đứng 30 vạn quân Tống của Quách Quỳ, để Lý thường Kiệt giết trọn trên sông Như Nguyệt, tạo hứng cho Đại tướng quân viết bài thơ thần 'NAM QUỐC SƠN HÀ' khẳng định với giặc Bắc, về cương thổ độc lập của Đại Việt.. Nhưng lừng lẫy nhất vẫn là trận Liễu Thăng, danh tướng số một của nhà Minh, bị các tướng Lam Sơn của Bình Định Vương Lê Lợi, chém rụng đầu năm 1427, nay vết tích vẫn còn nơi 'Liểu Thăng Thạch' và 'Lê Tổ kiếm' như một bài học, thách thức người Hán trước ác mộng xâm lăng VN.

Riêng ngoài biển Đông, cũng do VC hèn nhục ký nhượng phần lớn lãnh hải của VN, khiến cho Trung Cộng ngang nhiên tuyên bố chủ quyền 200 hải ly tính từ Hoàng Sa, cộng thêm một hiệp ước khác vừa lén ký,cho phép Trung Cộng ra vào tự do trong vịnh Bắc Việt.. làm cho vùng biển của VN, bây giờ thành cái ao của Trung Cộng nên mới dám hung tàn tập trận bắn đạn thiệt. Tóm lại hành vi bán nước của đảng cọng sản VN, chẳng những gây phẩn nộ cho cả nước, mà còn làm cho người ngoại quốc bất bình và khinh bỉ, mà nhà báo người Pháp Sylvaine Pasquier, gọi đó là quốc nhục của người Việt.

Mới đây, Hà Nội lại ký thêm nhiều hiệp ước bất bình đẳng với Tàu, công khai đồng thuận để giặc bắn giết đồng bào ngư phủ ngay trên biển đảo yêu quý của quê hương mình. Ngày nay, VN đã nghèo khổ lại càng khốn đốn hơn vì diện tích canh tác càng ngày càng bị giới hạn bởi thiên tai, nguồn tưới và nạn nhân mãn trầm trọng, với 5,2 triệu ha ruộng, phải nuôi hơn 80 triệu người, nên bình quân 0,16 ha dành cho 1 nông dân, nếu theo quy định của Liên Hiệp Quốc, thì quá thấp, dù theo cái loa tuyên truyền thì VN hiện nay là nước đứng thứ hai (sau Thái Lan) sản xuất gạo. Nói chung, gạo thặng dư bán ra ngoài chỉ là vấn đề thời gian, cho nên dù muốn hay không, thức ăn và tương lai của dân tộc cũng vẫn là trên các sông ngòi biển sóng.

Theo nhận xét chung của các chính trị gia quốc tế, VN ngày nay dưới chế độ xã nghĩa, hoàn toàn trở thành chư hầu của Trung Cộng, từ quân sự cho tới lệ thuộc kinh tế, hàng hóa Tàu nhờ VC bỏ ngõ biên giới, cùng với bạch phiến, tiền giả .. tràn ngập Bắc ốNam. Thêm vào đó là sách vở, văn hoá, văn minh Hán Tộc cũng tràn ngập công khai và như tằm ăn dâu, ngày qua tháng lại tự nhiên đồng hóa người Việt, như Trung Cộng đã và đang thi hành tại Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương và Tây Tạng suốt hai thế kỷ qua.

Lãnh thổ đem bán, kinh tế giao phó, văn hiến thì mời nhập và mạng sống của cả nước nhờ vào hai vựa lúa Sông Hồng, Sông Cửu, nay cũng bị giặc Tàu kiểm soát lưu lượng trên đầu nguồn, bằng một hệ thống đập chằng chịt, khiến cho đồng bào cả nước năm nào cũng bị lũ lút tàn phá, một hiện tưọng không bao giờ xãy ra trước năm 1975.

1 - TRUNG CỘNG KHỦNG BỐ VIỆT NAM BẰNG NHỮNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TRÊN SÔNG HỒNG HÀ- MEKONG

Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhược tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt thống hận muôn trùng. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phát nguyên trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên quan tới sự sống còn của dân tộc. Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong ' Đây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được , ai dám ngăn cản '.

Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Đại học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa. Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của VN như Hồng Hà, Đà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu và thông báo tình trạng ô nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng làm trước hết hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long làm trò cười cho đồng bào cả nước và dư luận khắp nơi trên thế giới.

+ HỆ THỐNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VN :

Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Đông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ VN, mới có tên là Cửu Long Giang. Vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Ngoài ra còn bá quyền nước lớn, bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Đập Thủy Điện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.

Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Đặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam, đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này. Đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Đại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Độ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.

Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xã nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẻ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Đông, sẽ bị ngập mặn vì lòng sông thấp hơn mực nước biển. Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữ lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá.

Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Đập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Đập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.

Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995 cũng như không cầm đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhát là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.

+ SÔNG NGÒI TẠI BẮC PHẦN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU:

Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Đồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm, với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái Bình.

Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón. Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Đuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.

+ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:

Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt. Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu.

2 - TRỜI HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI VN:

Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Thừa Thiên thuộc bắc Trung phần, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết,thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát biển, làm cho đồng ruộng cằn khô vì cát lẫn với đá núi. Cho nên trong dân gian đã có câu ca dao ' Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm '.Lời than thở này bây giờ đã vượt biên giới và trở nên thân quen đối với đồng bào cả nước, vì năm nào cũng phải cât lực đối phó với tình trạng lụt lội, đã trở nên thường trực trong cuộc sống của mọi người.

Nam Trung phần kéo dài từ bên này đèo Hải Vân tới Bình Thuận (10 độ 35'B ố 16 độ 12' B) gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, chiếm một diện tính 44.360 km2 với dân số 9.025.100 người (thống kê 2009). Toàn vùng gồm các bình nguyên hẹp chạy ven biển, bên trong là dãy Trường sơn nên hệ thống sông ngòi mang chung đặc điểm ngắn, dốc, mùa nắng khô hạn, mùa mưa lũ lụt. Đây là vùng chịu nhiều thiên tai triền miên.. sau năm 1975.

Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, thì đại họa cũng bắt đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh dòng sông không còn êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới 14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm 1932 là 13,3m và hiện nay đã cao tới 15-15,5m. Ngoài ra còn hy vọng vào các hồ chứa sông Đà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt.

Trước đây khi dòng sông Cửu Long chưa bị biến thái vì các đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. thì hằng năm nước ngập, đã mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ , làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đã bị sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới rút hết nước.
Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào 7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị chìm ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa phượng bị thiệt hại , từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn. Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị mòn xói, phá vở các công trình xây dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996, làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182 tỳ tiền Hồ.

Nguy cơ trùng trùng nhưng Đảng chẳng những chẳng giải thích một lời nào về thảm họa vì đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, vì có sự bồi đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm thủy sản quý của thiên nhiên ban cho các dòng sông Hồng Hà, Mekong.. đã bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại.
Kế tiếp những gì may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái. Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ còn nhận đủ những thứ cặn bã, trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy bên Tàu, đổ xuống dòng nước, tống ra biển, như chúng đã làm trên sông Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.

3 - ĐỒNG RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU VÌ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN:

Từ năm 1980 tới nay, các sông ngòi ở VN hầu hết đều biến đổi kỳ lạ: Mùa mưa thì tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại các sông, đã liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.

Đã có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn uống,tắm giặt. Đây là thảm họa chỉ mới xãy ra tại Nam Phần từ sau thang 5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có tình trạng trên,vì ảnh hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu, cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.

Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không còn dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất thu. Theo định luật khoa học, thì tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ (nước ngọt đã bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để tưới ruộng tạm thời khi không còn một lối thoát nào khác. Nguyên do vì thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa. Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ ruộng và kè đê tốt, nên đã lãnh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 - 1,3 Ha theo báo cáo của các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn còn gây tổn hại rất lớn đối với những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá, ốc.. để xuất cảng.

Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng, bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặn vào sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng vì nhu cầu nước tuới, đồng bào đã vô tình giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986, vùng Tuyên Nhơn-Đồng Tháp, tình trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Đồng Tháp Mười được khai thác triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng tới tăp vào sâu trong nội địa.

Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đã vượt qua vài cây số và nằm lai tới 17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, tình trạng trên lại tái diễn một cách khốc liệt. Nguyên do vì mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút đi rất sớm Tình trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa tới 15-20km.

Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so với các năm trước, nhưng vẫn còn sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đã gây thiệt hại cho hơn 200.000 Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn, vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng. Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ngòi miền Nam, là nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động, vì nước ngọt từ năm 1999 đã tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại, không riêng gì Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ.đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và không có triệu chúng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt. Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng thổi manh hơn mấy năm trước,dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng dòng sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.

Hởi ôi, đây là cái giá mà dân tộc Việt Nam phải còng lưng gánh chịu cho Hồ Chí Minh và tập đoàn lảnh đạo lớn bé của CS, chẳng những bây giờ mà còn kéo dài tới nhiều thế hệ sau này, qua những hành động trời tru đất diệt của Việt Cộng bấy lâu nay, chỉ vì manh tâm chiếm trọn giang sơn để vinh thân phì gia, đổi đời và ôm cái hào quang anh hùng cứu nước mà thật sự chỉ là lớp son phấn bên ngoài vì hoàn toàn vay mượn của ngoại nhân suốt cuộc chiến ngụy tạo.
Năm 1077, Lý thường Kiệt trong lúc ngăn chống giặc Tống trên sông Như Nguyệt, Ông đã thay mặt quốc dân Đại Việt khẳng định: "NAM QUỐC SƠN HÀ, NAM ĐẾ CƯ".
Ngày nay ngụy quyền CSVN tiếm quyền dân-nước, đã đi ngược lại lòng dân, ý nước khi công khai phủ nhận quyền làm chủ đất nước mình, qua ngàn trăm hành động nhục nhã,khiến cả nước bị người Tàu bốc lột, khinh thường, chèn ép . Nhưng nhục nhã nhất cũng vẫn là hành động của bọn chóp bu Hà Nội, bắt buộc người dân cả nước cung nghinh ngọn đuốc máu của Tàu đỏ khi tới Sài Gòn vào ngày 29-4-2008. Thái độ hèn kém mất tư cách của nhóm lảnh đạo đảng, đã chôn vùi danh dự và uy tín của VN khắp thế giới vì sự bưng bợ Trung Cộng ra mặt. Đây là ngọn đuốc máu, biểu tượng của một đế quốc côn đồ, lưu manh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, đã bị năm châu nguyền rũa tẩy chay khinh bĩ vì cướp nước Tây Tạng, chà đạp nhân quyền và ỷ mạnh hiếp yếu. Thế mà chỉ có VC một mình một chợ, muối mặt a dua và ca tụng kẻ thù cướp nước và thảm sát đồng bào mình.

Suốt mấy ngàn năm tranh đấu chống sự thống trị của giặc Tàu phương Bắc, tiền nhân chúng ta ngay từ thời các Tổ Hùng mở nước, đã tạo nên bản chất quật cường làm thành một tôn giáo đặc biệt VN, thờ kính các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc, suốt 20 thế kỷ trong dòng lịch sử Việt, đã có công ngăn chống giặc Tàu xâm lăng cướp nước. Các vị vua chúa VN thời trước đã khôn ngoan trong cách xử thế, khi vừa cứng rắn chiến đấu chống giặc Tàu để dành độc lập và sự vẹn toàn lảnh thổ, lại cũng rất mềm dẻo trong ngoại giao để tránh bớt sự căng thẳng giữa hai nước. Nhưng VC thì trái lại chỉ biết có cúi đầu, quì gối và bựng bợ giặc, tạo cơ hội và điều kiện để kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt lấn áp và xen vào nội bộ, đưa tới hậu quả bi thảm: mất nước, mất chủ quyền vàsắp bị diệt vong trước sự xâm lăng công khai của Tàu đỏ. Hèn như vây nên tên Tàu Vương hàn Lĩnh công khai khinh bỉ dân tộc Việt ngay giữa Sài Gòn và công khai phá bỏ hết các bia mốc lịch sử tại biên giới Hoa Việt mấy ngày qua, như muốn chứng tỏ với thế giới rằng " Việt Nam ngày nay đã là một quận huyện của Trung Cộng ".

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2010
MƯỜNG GIANG

Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2010

BA MUOI NAM TRUOC VIET CONG TAN SAT NGUOI VIET HET SUC TAN BAO, BA MUOI NAM SAU VIET CONG CUNG TAN BAO CUOP CUA NGUOI VIET

Bịt miệng che mắt người dân để duy trì quyền lực, đoạt của cướp đất người dân để tích hưởng tài sản, và cậy dựa phục tùng ngoại bang để được bảo vệ ngai vàng, có thể nói đó là 3 hoạt động chính của đảng Cộng sản Việt Nam qua dòng lịch sử, kể từ ngày nó lên ngôi thống trị. Đến giai đoạn thoái trào hôm nay, ba hoạt động ấy càng gia tăng mãnh liệt. Đây là hiện tượng từng thấy ở Đông Âu và Liên Xô các năm 1989-1991, lúc toàn bộ khối Vácsava đi vào con đường sụp đổ hoàn toàn. Điều này tương tự những phát quẫy đuôi cuối cùng của một con mãnh thú. Nó cấu xé, nó tấn công, nó vơ vét, nó chụp giựt, nó lồng lộn, nó giẫy dụa… mong kéo dài thêm những tháng ngày tồn tại sau hết và hưởng thụ thêm trong những giây phút cuối đời.
1- Tiếp tục bịt miệng che mắt người dân: Trong những tuần lễ gần đây, người ta thấy rộ lên một đợt tấn công dữ dội vào các nhà dân báo (bloggers) và các trang dân báo (blogs). Anh blogger Ðiếu Cày, tức Nguyễn Văn Hải, thành viên và sáng lập viên “Câu lạc bộ Nhà báo Tự do”, người từng tham gia biểu tình chống Trung Quốc các năm 2007-2008, rồi bị truy tố với tội danh vu khống “trốn thuế” và thụ án hai năm rưỡi, lẽ ra đã phải rời nhà tù hôm 19-10-2010. Thế nhưng Anh đã bị những kẻ cầm quyền CS trở mặt, quyết định giam giữ thêm với tội danh “Tuyên truyền chống phá nhà nước”, cái “tội” mà hai năm rưỡi trước họ chẳng dám đưa ra khi bắt anh vì sợ dư luận. Ngay đêm trước, hôm 18-10-2010, công an đã đến nhà bắt một blogger khác, AnhBaSG, tức luật gia Phan Thanh Hải. Là thành viên Câu lạc bộ Nhà báo tự do như Điếu Cày, luật gia Hải cũng từng tham gia cuộc biểu tình chống Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền Trường Sa Hoàng Sa ngày 9-12-2007, sau đó còn tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ trên trang dân báo cho các vấn đề xã hội.
Đến tối ngày 23-10-2010, lại một blogger nổi tiếng khác là CogaiDolong, tên thật là Lê Nguyễn Hương Trà, ở quận Tân Bình, Sài Gòn, đã bị công an bắt khẩn cấp tại nhà riêng vì tội “vu khống”. Tờ Vnexpress.net cho biết: “Cô Trà đã căn cứ vào một bức thư nặc danh để viết bài trên blog về gia đình một cán bộ cấp cao của nhà nước. Trong bài này, cô còn đặt vấn đề về một số hoa hậu, nghệ sĩ đã được gia đình vị quan chức bao bọc vì là người yêu của quý tử”. Quan chức này không ai khác hơn là Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Bộ Công an, kẻ từng bị nhiều người, nhất là thuộc cấp, tố cáo về tội lạm quyền và tham nhũng, nhưng vẫn bình chân như vại. Cùng lúc, tin từ một công ty Internet ở Atlanta tiểu bang Georgia, HK, vừa cho biết những nhà dân báo có khuynh hướng chính trị tại VN đang là nạn nhân của các hackers. Bọn này, tay chân của công an mạng, sử dụng đến 15.000 máy điện toán để đánh sập một số websites dám phê phán và tố cáo nhà cầm quyền CS.
Chưa hết, sau thảm họa tại vùng Ajka, Hungari ngày 05-10-2010 (vốn đã khiến khoảng một triệu khối bùn đỏ từ hồ chứa bị vỡ đổ xuống các vùng thấp chung quanh và một số con sông, cuốn trôi khoảng 270 căn nhà, phá hủy nhiều cầu đường, làm 150 người bị thương và 7 người tử nạn…), các nhà trí thức VN từng kiến nghị ngưng khai thác bauxite Tây Nguyên năm ngoái, lại viết một kiến nghị thứ hai, thống thiết hơn, ký ngày 09-10-2010, yêu cầu dừng hẳn toàn bộ dự án, vì nó như quả bom treo trên đầu nhân dân đồng bằng Nam Bộ. Vậy mà nhà cầm quyền CS một lần nữa lại làm ngơ, Quốc hội (phiên họp hạ tuần tháng 10) cũng im tiếng, cho dẫu những lý chứng đưa ra đều đầy tâm huyết, thuyết phục. Không những thế, các "trí thức nhà nước" lại còn bác bỏ thẳng thừng, phê phán họ như những đồ ngu, rằng “mới thấy tai nạn ở Hungary đã bàn lùi....”, rằng "chẳng lẽ cả thế giới ai khai thác bauxite đều phải bỏ hết?” rằng "chủ trương khai thác bauxite đã được thống nhất rồi, bây giờ dự án đang triển khai thì cứ tiếp tục" (giám đốc công an tỉnh Đắk Nông) hoặc "bảo đảm hai hồ chứa bùn đỏ ở Tây Nguyên an toàn" (bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường. Tuổi Trẻ ngày 22+23-10-2010). Mới nhất còn có tin công an trên toàn quốc vừa được lệnh mở cuộc trấn áp, đe dọa những ai ký tên vào bản kiến nghị. Chiến dịch trước tiên sẽ nhắm vào những người không có vị thế cao trong giới cầm quyền và quân đội, không nổi tiếng trong xã hội như các kỹ sư, sinh viên, doanh nhân, nhà báo độc lập… buộc họ phải thú nhận sai lầm, bị kích động, xin rút tên khỏi kiến nghị, để cuối cùng thiểu số nhân vật từng là quan chức cao cấp, tướng lãnh uy tín sẽ bị cô lập và kết tội. Và với việc ban luật cấm khiếu kiện tập thể (Thông tư số 04/2010 do Thanh tra Chính phủ ra ngày 26-8-2010 một cách vi hiến), đảng quyết tâm bịt miệng che mắt người dân cho đến cùng.
2- Tiếp tục đoạt của cướp đất người dân: Sau khi vụ Tập đoàn công nghiệp đóng tàu Vinashin, hôm tháng 7-2010, bị đổ bể trước công luận với số nợ lên tới 85.000 tỷ mỹ kim mà người ta biết chỉ là do sự tham nhũng công quỹ của Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Thanh Bình và thuộc hạ, vụ Lễ hội 1000 năm Thăng Long với tổng chi tiêu lên tới 4,5 tỷ mỹ kim đầu tháng 10 lại càng gây phẫn nộ khôn lường cho nhân dân và ai nấy đều thấy đó như một trong những cơ hội vơ vét cuối cùng của các đảng viên Cộng sản tại Hà Nội. Mới đây, đài Á châu Tự do lại đưa tin chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng-An ninh Quốc hội CS, tại phiên họp ngày 21-10, đã nêu rõ: sau khi UB Kiểm tra Trung ương Đảng công bố kết luận điều tra thì tổng số nợ Vinashin vay của các ngân hàng lên đến 120.000 tỷ đồng. Thế là coi như trắng tay, đốt sạch tiền mồ hôi nước mắt của dân và hàng trăm triệu mỹ kim vay nợ nước ngòai. Vậy mà theo chương trình nghị sự do Ủy ban Thường vụ QH quyết định thì trong kỳ họp này, các Đại biểu cũng chỉ có “xem xét hoạt động của Tập đoàn Vinashin… và một số báo cáo chuyên đề khác”. Nhưng từ “xem xét” đến đặt vấn đề thay đổi hay bãi bỏ vai trò chủ đạo nền kinh tế của các tập đòan kinh tế nhà nước thì còn xa vời. Bởi lẽ Cương lĩnh 1991 (bổ sung năm 2011) sẽ đem ra biểu quyết tại Đại hội đảng XI vào tháng 1-2011 vẫn kiên định : “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo… Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.” Như thế là CS vẫn muốn tiếp tục vơ vét túi dân, vẫn muốn độc quyền thao túng thị trường, miễn sao có lợi cho một số lãnh đạo đảng.
Vụ án Cồn Dầu hôm 27-10 mới rồi cho thấy nhà cầm quyền CS địa phương tiếp tục chính sách cướp đất đai của dân để chia chác hay bán cho các công ty tư nhân. Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2 Sài Gòn, với diện tích 930 ha, cũng là một mảnh đất vàng, đã và đang đem lại cho Nguyễn Tấn Dũng lẫn Lê Thanh Hải, chủ tịch thành phố, một món lợi nhuận kếch sù: 15 tỷ mỹ kim (Theo một bài viết tung lên mạng ngày 07-10-2010). Đó là đối với dân đen. Riêng đối với binh lính, lãnh đạo CS cũng không từ hành vi bóc lột tận xương tủy. Điển hình là vụ hàng trăm quân nhân và gia đình thuộc Sư đoàn 324 thuộc Quân khu 4 (Nghệ An), từ đầu năm 2006 đã bị cấp trên lừa đảo (nộp 130 triệu/người để được đi xuất khẩu lao động). Tiền mất, việc hỏng, họ đã đi khiếu kiện các cấp chỉ huy quân đội, thậm chí ra tới bộ Quốc phòng, thế mà vẫn không được giải quyết. Mới đây, trong cơn mưa gió đêm 14-10-2010, khi ngồi trước cửa Bộ Tư lệnh Quân khu 4, họ vẫn tiếp tục bị đàn áp cách tàn nhẫn.
Phiên tòa tại Trà Vinh hôm 26-10-2010, nhằm xét xử anh Đoàn Huy Chương, đồng sáng lập Hiệp hội Đoàn kết Công Nông VN và hai thành viên trẻ Khối 8406 là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh, với mức án tàn bạo (9 năm cho Hùng và 7 năm cho hai bạn) chỉ vì họ từng vận động bảo vệ quyền lợi người lao động và các nạn nhân bị tịch thu đất đai, phiên tòa đó cũng là dấu chỉ CS muốn tiếp tục bóc lột mồ hôi nước mắt của công nhân và nông dân vốn chiếm tới 80% dân số trên đất Việt.
3- Tiếp tục cậy dựa phục tùng Trung Cộng: Lễ hội Ngàn năm Thăng Long mới rồi, với thời điểm trùng lễ Quốc khánh Trung Cộng, với những bộ phim chào mừng sặc mùi Tàu từ hình thức tới nội dung, từ phương cách dàn dựng tới câu chuyện tường thuật, tất cả đã toát lên não trạng lệ thuộc Đại Hán cách rất thản nhiên mà vốn đã có từ thời ông Hồ. Não trạng lệ thuộc này còn bộc lộ qua sự khiếp hãi không ngừng đối với Bắc Kinh. Khiếp hãi đến độ nhường đất nhường đảo, nhường biển nhường rừng, nhường những dự án khai thác và những công trình xây dựng cơ bản. Khiếp hãi đến độ khúm núm trước lãnh đạo Trung Nam Hải. Tiêu biểu là hình Nông Đức Mạnh cúi đầu khom lưng vái Hồ Cẩm Đào cách rất ô nhục trong một cuộc duyệt binh (tung lên mạng cách đây không lâu), là việc tay Tổng bí thư này bị bộ trưởng quốc phòng Trung cộng Lương Quang Liệt chẳng thèm ôm hôn lại hôm 10-10-2010! Khiếp hãi đến độ để cho Trung cộng thường xuyên bắn giết, cướp bóc, xua đuổi ngư dân Việt trên biển, hoặc đợi cho nó giam 44 ngày đêm mới xin về (vụ 9 ngư dân Quảng Ngãi hôm 26-10). Khiếp hãi Trung cộng nên đã luôn cấm cản, lùng bắt, giam giữ những ai biểu tình chống Trung Quốc (như anh Điếu Cày trước đây ở Sài Gòn và như bà Võ Hồng mới rồi tại vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội), những ai làm hại tới quyền lợi Trung quốc (dù quyền lợi này là tai hại khôn lường cho dân tộc) như các nhà trí thức chủ trương mạng Bauxite VN và những ai ký vào bản kiến nghị dừng khai thác khoáng sản này.
Những hiện tượng kể trên, vốn ngày càng gia tăng tầm mức và cường độ, nhất là khi càng tới gần cơ hội chia chác chụp giựt quan trọng là đại hội đảng lần thứ 11, cho thấy CSVN đang đi đến giai đoạn tồn tại cuối cùng của nó, với cơn giẫy chết lúc lâm chung. Bởi lẽ một chế độ, một chính đảng xây dựng trên gian dối bạo tàn, cướp bóc dân nước và nô lệ ngoại bang thì không thể mãi tồn tại, nhất là trong thế giới trọng nhân quyền dân chủ hiện nay. Bổn phận của phong trào dân chủ là cùng nhau nỗ lực làm cho giờ tàn lụi này mau điểm, quyền dân chủ hiện nay. Bổn phận của phong trào dân chủ là cùng nhau nỗ lực làm cho giờ tàn lụi này mau điểm, để cho dân nước đỡ khổ ngày nào hay ngày nấy.

MUNG QK TAU CONG, BO TUI 4500 TY DONG, LAM NGO LU LUT MIEN TRUNG,..DUNG LA MOT LU CHO SAN CONG SAN KHON KIEP

VC RUT TIA BO TUI 4.5 TY DOLA BANG DAI LE 1000 NAM THANG LONG VA DA CO TINH
LAM NGO NAN LUT MIEN TRUNG VI DA CAN SACH TIEN CONG QUY
Đại lễ kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long do Hà Nội tổ chức vừa chấm dứt và Cộng sản Việt Nam đã lãnh một bài học đích đáng từ trời lẫn người. Từ trời là chính cơn lụt lịch sử xảy ra tại 5 tỉnh miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) trong chính giữa 10 ngày đại lễ. Từ người là phản ứng ứng dữ dội và đồng loạt từ trong ra tới ngoài nước, từ các nhà trí thức đến các nhà đối kháng, từ hạng thường dân đến hạng tu hành, từ giới ký giả đến giới nghệ sĩ… Tựu trung, có thể nói các phản ứng nhắm đến 4 điểm: 1- Những mục tiêu và ý nghĩa bị biến đổi; 2- Những chi tiêu hoang phí phù phiếm; 3- Những công trình chào mừng bôi bác lai căng; 3- Những ứng xử vô tâm bất nhẫn. Những mục tiêu và ý nghĩa bị biến đổi là chọn thời điểm trùng với lễ Quốc khánh của Tàu cộng, chẳng đề cao đúng và đủ tinh thần Lý Thái Tổ-Thăng Long, không phát huy các thành tựu nhân bản của tiên tổ, thực hiện những công trình phô trương vô bổ thay vì xây dựng hay cải tạo những cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh, lợi dụng đại lễ để bòn rút công quỹ, bóc lột nhân dân, tuyên truyền cho đảng và lãnh tụ...
Những chi tiêu hoang phí, phù phiếm là đúc 100 trống đồng, 1000 tượng rồng, làm 1000 trống da, may 10.000 bộ y phục để chỉ mặc một buổi, dựng nhiều bộ phim tốn cả trăm tỷ, tổ chức 54 hoạt động chính với gần 300 buổi biểu diễn của các đoàn nghệ thuật nội lẫn ngoại, bắn pháo hoa tại 29 điểm (sau phải bỏ bớt vì áp lực công luận), diễn hành rầm rộ với hơn một vạn người… Những công trình chào mừng lai căng, bôi bác là tượng Lý Thái Tổ không có nét gì của dân Việt, là bộ phim “Lý Công Uẩn -Đường tới thành Thăng Long” hoàn toàn sai văn hóa và lịch sử Việt từ hình thức tới nội dung, là Con đường gốm sứ trông như một tác phẩm nghệ thuật dân gian hổ lốn và mới làm đã hư hỏng, là tim đồng đúc cho tượng Thánh Gióng và còn ngựa của ngài, là DVD Tình ca Ngàn năm Thăng Long-Hà Nội với một thứ Anh ngữ quái đản… Những ứng xử vô tâm bất nhẫn là tống tất cả trẻ em đường phố và dân oan khiếu kiện vào nhà tù mang tên “Trại bảo trợ xã hội” ở Ba Vì để làm đẹp mặt Thủ đô, là trình diễn ca nhạc kèm bắn pháo hoa nghệ thuật đêm bế mạc tại sân vận động Mỹ Đình dù 4 hôm trước đã có nhiều người mất mạng tại đó, là tiếp tục vui chơi tại Hà Nội, bỏ mặc bao đồng bào nạn nhân lũ lụt tại 5 tỉnh miền Trung, khiến cho 76 người thiệt mạng, đến khi cứu trợ họ thì chẳng ra gì… Lời Giáo sư Phạm Toàn sau đây (trả lời phỏng vấn của DCVOnline hôm 11-10-2010) có thể tóm tắt sự kết án của toàn dân đối với CS nhân đại lễ: “Một xã hội với bọn người bẩn thỉu không đáng cho mình nghĩ nữa. Tôi khinh họ đến mức có bảo chửi họ tôi cũng chẳng muốn chửi nữa cơ… Một nền văn hóa vớ vẩn, nói chỉ phí lời. Để cho họ tan đi thì thế hệ sau nó dựng lại”.

Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2010

DANG VIET CONG BIP NGAN NAM THANG LONG DE BO TUI 4.5 TY DO LA

NGAN NAM THANG LONG LA
NOI NHUC QUOC THE HAY NGAY TAN CUA VIET CONG, XIN DUOC LAM 1 TINH CUA TAU CONG,LUON TIEN VET HET NGAN SACH NHA NUOC, CHUAN BI TRON CHAY
Người viết xin ghi lại lời di chúc của vị vua anh minh Trần Nhân Tôn, để nhắc nhở cho những ai còn mang trên mình dòng máu Việt Nam ở trong và ngoài nước phải biết rằng: bất cứ hành động nào dù vô tình hay cố ý tiếp tục đi theo đường lối của các nhà lãnh đạo ĐCSVN đều mang trọng tội với lịch sử, với Tổ quốc và nhân dân: “Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ tự cho mình cái quyền nói một đằng làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung hoa, chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra nơi biên ải, các việc trên khiến cho ta nghĩ đến những chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước, cứ luôn luôn tự đặt ra cái cớ để tranh chấp, không thôn tính được ta thì gậm nhấm ta, họ gậm nhấm đất đai của ta. Dần dần họ sẽ biến giang sơn của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn, một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhủ này như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.

Từ ngàn xưa, trải qua các triều đại phong kiến, tiền nhân của ta dù có độc tài chuyên chế hay đất nước bị đô hộ của giặc Tàu, hoặc có những khi huynh đệ tương tàn khiến Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống phải nhờ vào sự giúp đỡ của đế quốc Trung hoa, nhưng vẫn không có triều đại nào cam tâm nghe theo ngoại bang để tàn sát dân tộc mình, cũng không có triều đại nào tự dâng hiến đất đai của Tổ quốc cho ngoại bang như triều đại của ĐCSVN hôm nay.

Thật vậy, trong suốt thời gian có sự hiện diện của ĐCSVN, nhân dân ta đã phải chịu quá nhiều đau thương và mất mát. Hàng trăm ngàn người dân vô tội và các nhà trí thức yêu nước của miền bắc Việt Nam đã bị tù đầy, chết oan ức trong phong trào cải cách ruộng đất và cuộc thanh trừng Nhân văn Giai phẩm mà ĐCSVN do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện theo chỉ thị của Mao Trạch Đông từ 1953-1957. Hậu quả là hơn một triệu đồng bào phải liều chết để di cư vào Nam tìm tự do, rồi cuộc nội chiến trên 25 năm với sự hy sinh của hàng triệu thanh niên khắp 2 miền đất nước, cùng với trên 5000 người dân Huế bị "bộ đội giải phóng" tàn sát hồi tết Mậu Thân 1968 ..., tất cả là những nỗi đau không thể xóa nhòa được trong ký ức mọi người. Nhờ sự phản bội đồng minh của Hoa Kỳ mà phe cộng sản mới chiếm được miền Nam. Sau khi chiếm được miền Nam và nhìn thấy sự sung túc và tự do của nhân dân miền Nam, đáng lẽ các nhà lãnh đạo CSVN đã nên suy nghĩ lại. Nhưng không, cũng vì say men chiến thắng mà họ đã tiếp tục phạm sai lầm, tiếp tục trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin không tưởng, tiếp tục vì quyền lợi cá nhân mà hy sinh quyền lợi của đất nước, của nhân dân, khiến cho hơn 3 triệu đồng bào phải liều chết vượt biên tìm tự do nơi đất khách trong đó, có hàng trăm ngàn người phải bỏ mình ngoài biển cả bao la. Các nhà lãnh đạo CSVN quá đê hèn, quá bạc nhược trước bọn cường quyền Trung Quốc, luôn luôn trung thành với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt do Trung Quốc đề ra.

Công hàm bán nước công nhận Hoàng Sa nằm trong hải phận của Trung Quốc doThủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, được báo Sài Gòn giải phóng phát hành tháng 5/1976 đăng lại lời nói của cựu Tổng Bí thư Trường Chinh: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc Vệt Nam hay Trung Quốc cũng vậy thôi”, còn C Hồ Chí Minh thì tuyên bố: “Ai có thể sai chớ đồng chí Mao thì không thể nào sai”. Cuộc tàn sát vô nhân đạo của bọn xâm lăng Trung Quốc vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam tháng 2/1979 để dạy cho Việt Nam một bài học, cùng với sự tan rã của khối cộng sản Liên Sô và Đông Âu đã khiến cho các nhà lãnh đạo CSVN phải quay về với Trung Quốc và dâng hiến cho chúng trên 8000 km2 vùng biển bắc bộ, vùng đất địa đầu Ải Nam Quan, bãi Tục Lãm và 2/3 Thác Bản Giốc… Nhà nước CSVN lại cho phép Trung Quốc vào khai thác Bô xít ở Tây nguyên (yết hầu của Việt Nam và nóc nhà của Đông Dương) bất chấp sự can ngăn của đại tướng Võ Nguyên Giáp và trên 300 nhà trí thức, khoa học trong ngoài nước, cho Trung Quốc thuê trên 300 ngàn hecta rừng chiến lược biên giới ttrrong thời gian 50 năm, luôn câm nín hoặc chỉ phản đối chiếu lệ khi Trung Quốc ngang nhiên bắt bớ, đánh đập, cướp tài sản, đòi tiền chuộc đối với ngư dân Việt Nam đánh cá ngay trên hải phận của nước mình…

Đặc biệt, đại lễ ngàn năm Thăng Long với kinh phí khoảng 100 ngàn tỷ đồng (tương đương gần 5 tỷ Mỹ kim), chiếm gần 10% ngân sách quốc gia lại được tổ chức đúng vào ngày quốc khánh của Trung Quốc 01/10/2010. Trong khi theo Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Khâm Định Việt sử và Phật giáo Sử lược tập 2 của GS Lê Mạnh Thát cùng Việt Nam Sử lược của Sử gia Trần Trọng Kim (ông cũng là Thủ tướng chính phủ của nước Việt Nam độc lập thời Bảo Đại đã bị chủ tịch Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày 19/08/1945 ) thì vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long vào trung tuần tháng 7 âm lịch năm Canh Tuất, (năm 1010 dương lịch) nghĩa là ngày kỷ niệm ngàn năm sẽ rơi vào tháng 8 hoặc đầu tháng 9 chớ không thể nào là ngày 1/10 dương lịch được. Thêm vào đó, cuốn phim dài 19 tập Lý Công Uẩn- Đường Đến Thăng Long tốn trên 100 tỷ đồng lại được quay tại TQ với ê kíp chính từ đạo diễn, hóa trang, kỷ thuật, cách ăn mặc và diễn viên phụ đều là người TQ, khiến cho sự bất bình trong dân chúng và sự phản biện của các thành phần trí thức yêu nước càng dâng cao.

- GSTS Nguyễn Đăng Hưng nhận định: “Mới xem qua thôi mà tôi đã thấy hãi, nếu không nói là kinh hoàng. Từ trang phục cho đến cảnh quan, từ áo mão cho đến búi tóc, hình ảnh toát ra cho thấy đây là phim Trung Quốc, chẳng khác gì những phim lịch sử Trung Quốc khác mà đông đảo người dân Việt Nam đang xem trên màn ảnh truyền hình…… Từ chổ vô văn hóa đến chổ văn hóa nô dịch là khoảng cách những bước đi nhỏ, phim nhắc nhở trên đây là một trong những bước đi ấy”.

- Gs Nguyễn Văn Tuấn: “Chưa bao giờ Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Quốc sâu đậm như hiện nay….., chẳng lẽ 1000 năm rồng rã chưa đủ để chúng ta trưởng thành, để chúng ta thoát khỏi ách thống trị văn hóa của Trung Quốc? Tại sao Nhật và Hàn quốc thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, còn ta thì không? Thật ra, có lẽ câu hỏi là: chưa thoát hay chưa muốn thoát?"

- Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân sau khi xem một số cảnh trong phim đã nói với phóng viên đài BBC là: “Cần cho bộ phim này vào kho để đánh dấu rằng trong điện ảnh Việt Nam đã từng có một sự kiện ngu dốt đến như vậy”.

- Nhà thơ Đỗ Trung Quân thì nhận xét đây là bộ phim Trung Quốc nói tiếng Việt.

- Ý kiến của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh sau khi xem phim: “Thật không thể được! Nếu tôi là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, tôi sẽ cấm chiếu bộ phim này trên toàn cõi Việt Nam, bất kể trên truyền hình hay rạp"

- Luật sư Cù Huy Hà Vũ trong đơn kiến nghị gởi Quốc Hội thì cho rằng: bộ phim Lý Công Uẩn – Đường đến Thăng Long là phản quốc. Còn rất nhiều những tiếng nói yêu nước từ các nhà trí thức ưu tú, mạch sống của Tổ quốc Việt Nam mà người viết không thể nào nêu ra hết. Có phải vì thế mà trong ngày khai mạc đại lễ ngàn năm lại không có sự hiện diện của tam trụ triều đình Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và toàn dân cũng không được treo cờ mừng đại lễ.

Trên 100 ngàn tỷ đồng được tung ra cho một đại lễ dưới danh nghĩa độc lập chủ quyền quốc gia, nhưng thực chất là chào mừng ngày lập quốc của bọn bá quyền Trung Quốc. Trong khi đất nước còn đang nằm trong danh sách nghèo của thế giới, bệnh viện có đôi khi một cái giường phải nằm 2 bệnh nhân, trường học còn thiếu và có nơi trẻ em học sinh phải đu dây cáp qua sông để đến trường như sông Pô Cô thuộc tỉnh Kontum, hoặc lội qua sông để đi học như sông Ayun thuộc huyện Chư Sê, trong các làng mạc ở nông thôn đại đa số nhân dân còn phải thiếu ăn trầm trọng, rất nhiều gia đình không có tiền nuôi con ăn học dù chỉ cấp I, cấp II, còn miền Trung thì đồng bào đang oằn hoại đau thương vì sự tàn phá của lũ.

Sự giúp đỡ của đồng bào hải ngoại qua chương trình từ thiện lá lành đùm lá rách cũng chỉ xoa dịu phần nào cảnh cơ cực của người dân. Rõ ràng những việc làm của các nhà lãnh đạo ĐCSVN đã đi ngược lại quyền lợi của đất nước, phản bội lại công lao và xương máu của tiền nhân, lừa dối cả dân tộc để ngấm ngầm đi theo lộ trình của Trung Quốc. Thử hỏi nếu xét về công và tội của chính quyền CSVN với các nhà bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa cho tự do, dân chủ và nhân quyền, cho sự vẹn toàn đất nước thì ai là người có tội? Các nhà lãnh đạo ĐCSVN hiện nay họ rất thành công trong chủ trương bịt nguồn thông tin trung thực đến người dân, đào tạo được một lực lượng công an, an ninh quân đội quá trung thành với đảng, chỉ biết còn đảng còn mình, mù quáng trước các hành động sai trái, vô nhân đạo đối với dân oan và các nhà đấu tranh dân chủ, họ đang dồn nhân dân vào bước đường cùng. Nhưng người viết tin tưởng vào lời nói của Gs Nguyễn Huệ Chi chia sẻ với ông Hà Sĩ Phu: "Nhưng mà tôi vẫn còn tin ở cái chỗ là dân tộc mình rất lạ, bình thường người ta không quan tâm gì đến công ích, bình thường người ta không quan tâm gì đến các huyện lớn của đất nước, thế nhưng mà khi đất nước bị dồn đến chân tường thì cái sức mạnh đó tự nhiên nó bật trở lại, nó như là một hồn thiêng sông núi tiềm ẩn trong tâm hồn con người Việt Nam"

Thế kỷ 21 này vẫn còn có chổ đứng của tâm linh, luật nhân quả là hiện thực không ai tránh khỏi, mọi hành động gian ác, bất thiện chắc chắn sẽ có những kết quả không tốt về sau. Người viết xem kỹ lại bài viết của Thượng tọa Thích Thiện Minh về ngày tàn của ĐCSVN và lời tiên tri của Lý Nguyễn Thiên Quý (đảng Bình Xã Thiên Việt) thì rõ ràng ngày tàn của ĐCSVN là rất gần.
Có 2 điều tiên đoán của Thượng tọa về ngày tàn của ĐCSVN là:

- Nếu lấy mốc 1975 (Mẹo) – 2011 (Mẹo)=36 năm, tức là Mẹo gặp lại Mẹo và 3+6=9 cùng 81năm tồn tại của ĐCSVN 8+1= 9.
- Nếu lấy mốc năm thành lập ĐCSVN 1930 (Ngọ) – 2014 (Ngọ), tức là Ngọ gặp lại Ngọ.

Tuy nhiên theo quả quyết của nhà tiên tri Lý Nguyễn Thiên Quý thì cuối năm 2014 ĐCSVN sẽ thực sự suy vong. Nhưng riêng cá nhân người viết nhận thấy thì những gì mà ĐCSVN đang đối diện, những sự việc đang xảy ra trên đất nước đã hội đủ 3 điều kiện cho sự sụp đỗ giống như của ĐCSLX năm 1989 – 1990 đó là:

1/ Lòng dân ly tán không còn tin tưởng vào chính quyền lãnh đạo đất nước nữa. Trong thời gian qua, hình ảnh đàn áp dân oan, đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ, đàn áp các tín đồ các tôn giáo, tham nhũng tràn lan bất trị và sự lộng hành của công an…v.v…đây là điều kiện thứ I.

2/ Nội bộ chính quyền tranh giành quyền lực bí mật hại nhau, các phong trào đấu tranh tự do dân chủ, nhân quyền tiếp tục phát triển, các nhà trí thức, các nhà khoa học yêu nước trong đảng cũng như ngoài đảng bất chấp hiểm nguy và can đảm phản biện công khai với chủ trương và chính sách sai trái của chính quyền, những đảng viên ưu tú và trí thức của đảng sẵn sàng từ bỏ đảng…v.v… đây là điệu kiện thứ II.

3/ Bất ổn xã hội, lạm phát tăng nhanh, đồng tiền mất giá, vật giá các mặt hàng tiếp tục tăng cao khiến cho cuộc sống của đại bộ phận nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, nợ công của chính phủ đã vượt xa ngưỡng cửa cho phép của Ngân hàng thế giới là 50% GDP. Theo báo cáo của Bộ Tài chánh Việt Nam thì nợ công của Việt Nam năm 2009 là 52,6% GDP, dự đoán cuối tháng 12/2010 sẽ là 56,7% GDP..v.v.. đây là điều kiện thứ 3.

Chỉ số thông minh và con số nhân tài của Việt Nam không thua kém các nước văn minh trên thế giới, bằng chứng là số sinh viên Việt Nam đi du học ở các nước dân chủ đa nguyên cũng như con em các kiều bào Việt Nam hải ngoại đều đạt thành tích cao trong các trường danh tiếng của họ, một số cũng thành công trong sự nghiệp và đang giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trên con đường hội nhập. Trái lại, nền giáo dục trong nước thì sau hơn 35 năm thống nhất chưa có một trường đại học nào của Việt Nam nằm trong danh sách của 200 trường đại học của Châu Á, những nước cùng khu vực như Thái lan, Indonesia, Hàn quốc, Singapore, Malaysia, Đài loan thua xa miền Nam Việt Nam trước 1975, nhưng hôm nay thì họ đã hơn Việt Nam hàng chục thậm chí hàng trăm lần. Đặc biệt trong năm 2010 nếu chúng ta tự hào về thiên tài toán học thế giới Gs Ngô Bảo Châu (Pháp quốc), thì tại Hoa Kỳ cô bé 17 tuổi mang tên Alexandia Huỳnh con một người Mỹ gốc Việt, đã được trường đại học danh tiếng Harvard cấp học bổng toàn phần hệ tiến sĩ, còn tại nước Úc thì 2 anh em Võ Bá Ngự và Võ Bá Tường đoạt giải thưởng phát minh Eureka 2010 của tổ chức khoa học và công nghệ quốc phòng quốc gia Úc đã trả lời với phóng viên Trà Mi của Đài Á châu Tự do như sau: “ …. Nếu Việt Nam thực sự có tự do dân chủ và nhân quyền thì nhân tài ở khắp nơi sẽ kéo về để đóng góp phát triển đất nước chớ không cần phải có những chính sách thu hút nhân tài”.

Trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người, việc chọn lựa bạn tốt để giao du là điều thiết yếu. Trên tầm mức quốc gia cũng thế, là một nước chậm tiến và nghèo như Việt Nam, người lãnh đạo cần có tầm nhìn xa hiểu rộng để biết rằng: nếu ảnh hưởng và lệ thuộc hoàn toàn về chính trị vào Trung Quốc, một đất nước lúc nào cũng muốn thôn tính Việt Nam là hành động phản quốc. Thể chế dân chủ đa nguyên, đa đảng là con đường bắt buộc để thực hiện quyền bảo vệ đất nước, quyền tự do dân chủ và nhân quyền nếu chúng ta muốn được sống ấm no, hạnh phúc và đất nước được phồn vinh tiến bộ. Các nhà lãnh đạo CSVN vẫn biết điều này do đó, họ vẫn cho con cái đi du học và tìm cách định cư ở các nước tư bản dân chủ đa nguyên, nhưng vì bản chất tham quyền cố vị cho nên mới cố chịu đấm ăn xôi bám theo chân Trung Quốc, giữ thế độc quyền lãnh đạo kiểu độc tài cộng sản, một chủ nghĩa đã lỗi thời và đã bị loài người văn minh trên thế giới phế bỏ từ lâu.

Chế độ sẽ thay đổi nhưng dân tộc luôn trường tồn. Trên thế gian này không có bất cứ việc gì được tồn tại mãi mãi, nhất là những việc sai trái và bất thiện thì sẽ có ngày phải trả giá xứng đáng. Các chiến sĩ trong lực lượng công an, quân đội và những kẻ trung thành với ĐCSVN chỉ biết "còn đảng còn mình" nên suy nghĩ lại để sau này khỏi phải ân hận.

Sài Gòn ngày 10/10/2010
Trần Bảo Việt

Chủ Nhật, 3 tháng 10, 2010

VIET CONG MUNG QUOC KHANH NUOC TAU CONG Gia vo Mung 1000 nam Thang Long

Mạc Việt Hồng
12:58:am 02/10/10
http://www.danchimviet.info/archives/18612

Mạc Việt Hồng: Hôm nay, 1/10/2010 là ngày khai mạc đại lễ, chúng tôi muốn hỏi anh với tư cách một người Hà Nội, cảm tưởng của anh như thế nào?
Nguyễn Khắc Toàn: Đúng như vậy, hôm nay là ngày 1/102010 là ngày khai mạc “đại lễ hội 1000 năm Thăng Long- Hà Nội” do chính phủ CSVN phối hợp cùng chính quyền thủ đô đứng ra tổ chức.
Đối với nhà cầm quyền trong nước thì họ đã có chủ trương và vạch kế hoạch cho sự kiện này từ gần thậm chí hơn chục năm nay rồi chứ không phải là mới đây. Tôi là người Hà Nội đã sinh ra và lớn lên tại thành phố này hơn nửa thể kỷ nay và chứng kiến nhiều thời mốc quan trọng trong chiến tranh, thời bao cấp, tem phiếu cũng như giai đoạn tạm thời hòa bình và gọi là mở cứa như hiện nay. Trong giai đoạn này, tôi rất biết nhà cầm quyền CSVN họ rất muốn chính trị hóa các sự kiện này để củng cố quyền lực của họ trong buổi hoàng hôn của nhà nước CS độc tài toàn trị, đồng thời qua dịp này họ sẽ được khoác lên mình một manh áo mới mang màu sắc dân tộc tính hơn để che giấu đi bản chất vong bản, ngoại lai mà học thuyết Cộng sản Mác Lê nin đã làm tàn hại dân tộc và đất nước do chính họ du nhập vào. Tôi thấy lễ hội này đáng phê phán, tẩy chay hơn là hưởng ứng và chào mừng nó vì nhiều lý do nữa, đó là sự xuyên tạc, bóp méo lịch sử dân tộc rất trắng trợn và sự lãng phí, tốn kém hết sức phi lý.
Tôi có cảm giác nhà cầm quyền CSVN đang đi đúng con đường của chế độ thực dân Pháp đã cai trị đất nước ta trước kia đó là muốn ru ngủ mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội qua các cuộc vui chơi, lễ lạt liên miên để quên đi nỗi nhục cuộc sống không có dân chủ, tự do thực sự và cảnh ngộ đất nước đã bị mất rất nhiều các phần lãnh thổ, biển đảo của VN…

Mạc Việt Hồng: Anh thấy lễ hội đáng tẩy chay nhưng hàng trăm ngàn người, thậm chí cả triệu người đang rất náo nức, có những người vượt hàng trăm, hàng ngàn cây số tới xem lễ hội. Vậy anh giải thích sao về điều này?
Nguyễn Khắc Toàn: Chị nhận xét về điều này thật đúng, rất chính xác mặc dù chị đang ở tận Ba Lan, ở Châu Âu xa xôi mà chị cũng đã rời Việt Nam khá lâu rồi và chỉ đọc qua các bài báo, nhìn qua các hình ảnh trên Mạng từ Việt Nam đã có những nhận xét thật tinh tế thú vị.
Điều phi lý này cũng rất đơn giản và dễ hiểu bởi vì đây là một trong những chế độ độc tài toàn trị mà người dân trong nước đã phải sống gần 60 năm nay đối với miền Bắc VN, còn miền Nam chỉ là 35 năm phải chịu đựng. Trong đó đặc điểm căn bản lớn nhất của xã hội này là hoàn toàn không có đời sống tự do về mặt văn hóa, tư tưởng, tư duy, mọi tầng lớp nhân dân bị chế độ CS ra sức bưng bít thông tin, bị đàn áp khốc liệt, triền miên bởi chế độ vừa mang tính chất đảng trị, vừa là công an trị rất nặng nề và bị nhồi sọ liên tục.
Vì thế tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ đã là số ít trong xã hội lại khó lòng có được những suy nghĩ hay nhận thức một cách độc lập, còn giới nhân dân lao động thì phải chịu cuộc sống bị nô dịch về mặt văn hóa, về đời sống tinh thần còn mù lòa khủng khiếp hơn nữa. Mặc dù đảng và nhà nước CSVN đã buộc phải mở cửa gọi là đổi mới một phần về đời sống kinh tế, văn hóa, cởi nới một bước nhỏ về thể chế chính trị để hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh trong hơn 20 năm qua, nhưng hậu quả của cả xã hội bị trị do chế độ toàn trị cộng sản lâu dài như vậy là còn rất nặng nề.
Các cơ quan truyền thông, tuyên truyền như đài phát thanh, truyền hình, báo chí các thể loại vẫn hoàn toàn nằm trong tay nhà nước CS độc tài toàn trị này, vì thế nên có thể phần nào đời sống vật chất, kinh tế của dân chúng được cải thiện hơn trước một bước, nhưng đời sống văn hóa, tư tưởng, nếp tư duy của số đông dân chúng thì hầu như chưa được cải thiện là bao vẫn sống theo nền nếp cũ của thời kỳ cộng sản trại lính. Với sự kiện lễ hội ngàn năm Thăng Long đang diễn ra có rất đông người ở xa xôi về Hà Nội tham dự chính là hậu quả của một xã hội bị nền độc tài cai trị quá lâu dài, đời sống văn hóa của dân chúng thật nghèo nàn, đơn điệu, tẻ nhạt, lam lũ quanh năm nên đây là những dịp họ tự thưởng lãm cho mình được quyền hưởng thụ có tính cách giải trí như vậy.
Việc này nó cũng giống như hàng chục ngàn nông dân nghèo khổ ở các tỉnh xa xôi đã vượt bao xa cách để về Thủ đô vào thăm viếng lăng ông Hồ Chí Minh ngày ngày mà ta vẫn thấy mà thôi. Hàng trăm ngàn người có mặt ở lễ hội này thật nhưng đa số do hiếu kỳ, do nhu cầu giải trí tầm thường của cá nhân, trong khi đó nhận thức về văn hóa, kiến thức hiểu biết về lịch sử, đời sống tâm hồn và đặc biệt tinh thần tự hào dân tộc thì đa số là trống rỗng không có gì cả. Tôi tin là trong đó tuyệt đại đa số dân chúng trong số hàng trăm ngàn đồng bào đến lễ hội này không biết gì về việc nhà cầm quyền CSVN đã lựa chọn sai về thời điểm tổ chức lễ kỷ niệm không đúng với lịch sử đã diễn ra.
Tình hình này hoàn toàn trái ngược với bối cảnh được sống trong tự do thông tin, tự do báo chí, tự do tư tưởng của số rất nhỏ chỉ vài ba triệu người Việt tỵ nạn CS nơi hải ngoại nắm rất rõ về sự kiện vua Lý Công Uẩn rời đô vào chính xác thời gian nào, đó là chưa kể đến sự vô chính trị của họ khi mở màn lễ hội này vào ngày quốc khánh nước Trung Hoa cộng sản…Tôi nghĩ là số đông dân chúng trong nước đến với lễ hội không nói lên tính chính nghĩa của nhà cầm quyền CSVN, cũng không nói lên tính đúng đắn về mặt chính trị của sự lãnh đạo của họ.

Mạc Việt Hồng: Anh nói ĐCS chính trị hóa các sự kiện nhưng chính anh cũng đang nhìn mọi việc dưới con mắt rất chính trị?
Nguyễn Khắc Toàn: ĐCSVN lợi dụng dịp này để tô vẽ cho mình như là một chính đảng đang lãnh đạo đất nước và đại diện chân chính cho cả dân tộc, đặc biệt là giờ đây họ có tính dân tộc nhất. Bởi chính họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị để cộng sản hóa cả đất nước này bằng mấy cuộc chiến tranh hao người tốn của di hại còn nặng nề đến nay chưa hết. Họ đã theo đuổi đến cùng khuôn mẫu thể chế chính trị của một học thuyết ngoại lai, vong bản và phản dân tộc. Trong nhiều giai đoạn kể từ khi đoạt được quyền bính trên cả nước, họ đã rập khuôn theo hết mô hình chế độ chính trị Xô Viết, Đông Âu, đến cách thức đổi mới mở cửa một phần để sống còn theo kiểu Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình….
Để đạt được mục đích chiến thắng trong chiến tranh giữa 2 miền Nam- Bắc trước kia và giữ vững quyền lực độc đoán trong tay họ đã nhu nhược, ươn hèn ký các hiệp định với Trung Quốc làm mất nhiều phần lãnh thổ trên biên giới phía Bắc, Vịnh Bắc Bộ, Biển Đông… Họ im lặng không dám hé răng phản ứng lại để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta, không dám lên tiếng bảo vệ ngư dân Việt Nam bị hải quân Trung Quốc bắn giết. Đó chính là những hành vi phản bội đất nước và nhân dân, phản bội dân tộc Việt Nam bị dư luận đồng bào ta cả bên trong lẫn bên ngoài lên án mạnh mẽ trong nhiều năm qua.
Khi cơ hội có sự kiện kỷ niệm 1000 năm ngày rời đô về Hà Nội của bậc tiền nhân thì chính đây là dịp họ không tiếc gì tiền bạc ngân sách quốc gia để làm thật rầm rộ, “hoành tráng” để khỏa lấp đi những sai lầm và những tội lỗi nghiêm trọng đó nhằm để mỵ dân và đánh lừa dư luận. Vì vậy tôi vẫn khẳng định là ĐCSVN đã tận dụng hết cỡ những sự kiện này để chính trị hóa chứ không còn đơn thuần là lễ hội mang tính văn hóa, kỷ niệm dấu móc lịch sử của nước nhà.
Tôi là một nhà quan sát chính trị, một nhà báo tự do đấu tranh cho nền chính trị mới văn minh, tiến bộ hơn của nhà nước CSVN độc tài toàn trị, tôi luôn phải có nhãn quan chính trị trước các diễn tiễn trong và ngoài nước xảy ra. Tôi nghĩ đó là điều hợp lý và không dung chứa điều gì khuất tất hay mờ ám. Sự nhận định, đánh giá qua quan sát của tôi là có sự phân tích khoa học, có những cứ liệu chắc chắn, thuyết phục mà không gán ghép hay khiên cưỡng. Tôi còn mong tất cả quần chúng yêu nước tha thiết với sự nghiệp dân chủ hóa đất nước nên có những tư duy, hay nhãn quan chính trị như vậy. Vì điều đó còn là trách nhiệm công dân chính đáng đối với quốc gia và sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội đi lên không ngừng.

Mạc Việt Hồng: Việc lựa chọn khai mạc đại lễ đúng vào ngày quốc khánh Trung Quốc và kết thúc vào quốc khánh Đài Loan liệu là sự vô tình hay có mang mục đích chính trị gì không, thưa anh?
Nguyễn Khắc Toàn: Như trên tôi đã nói, sự kiện bộ chính trị ĐCSVN lựa chọn ngày khai mạc và bế mạc “lễ hội ngàn năm Thăng Long” lại trùng vào 2 ngày quốc khánh của 2 nhà nước Trung Hoa, một là của Cộng sản lục địa, một của Đài Loan là có mấy khả năng như sau:
Thứ nhất là, có những nhân vật tay sai thật sự của CS Trung Quốc trong nội bộ ĐCSVN ở cấp cao nhất đã rắp tâm làm việc này để phục vụ quan thầy hòng mong được sự hậu thuận về mọi mặt từ Bắc Kinh để chúng tiếp tục trị vì lâu dài. Việc này nếu quả thật xảy ra đúng như vậy thì không còn gì để mà nói nữa, bởi vì bọn thái thú đã cam tâm làm tay sai này chính là những Việt Gian : Lê Chiêu Thống, Trần ích Tắc,…ngày nay nằm ngay trong bộ máy cầm quyền tối cao nhất mà toàn dân phải đấu tranh loại bỏ chúng càng sớm càng tốt để tránh những tổn hại nặng nề hơn nữa cho đất nước và dân tộc Việt chúng ta.
Thứ hai, đây là sự lựa chọn vô tình thôi, chỉ vì họ muốn kết thúc đại lễ trọng thể nhất vào ngày 10/10/2010 vì đây là kỷ niệm ngày họ vào tiếp quản TP Hà Nội từ tay người Pháp thực dân cách đây đúng 56 năm mà họ vẫn gọi là “ngày giải phóng thủ đô”. Thế nhưng điều đó cũng không thật ổn lắm vì sự kiện này hàng năm vẫn không được coi là quan trọng kể cả năm chẵn và rất ít khi chính phủ trung ương cũng như chính quyền TP Hà Nội kỷ niệm trọng đại, linh đình ngày này. Mặt khác để chuẩn bị tổ chức lễ hội to tát này, họ đã tính toán, trù liệu mọi vấn đề liên quan rất kỹ càng từ trước cả chục năm rồi nên tôi nghĩ khó mà có thể là sự lựa chọn vô tình được, nó phải có ẩn ý thâm sâu nào đó của những thế lực đen tối trong nội bộ đảng CSVN. Hơn thế nữa khi bị dư luận phản ứng mạnh mẽ bất lợi như thế thì nếu tỉnh táo, khôn ngoan ra họ chỉ việc rời ngày lệch đi răm ba hôm lập tức mọi chống đối sẽ bị vô hiệu hóa ngay. Thế nhưng, họ đã kiên quyết tiến hành như lịch trình đã vạch ra mà không thay đổi gì, bất chấp sự đấu tranh rất mạnh mẽ của trí thức, quần chúng từ mọi phía.
Tôi cho là bộ chính trị của ĐCSVN rất kém cỏi, bảo thủ, lỳ lợm và hết sức vô chính trị, sai lầm nghiêm trọng khi quyết định trước một sự kiện lớn lao như thế, đây là việc không bình thường và không thể chấp nhận được.

Mạc Việt Hồng: Còn những đánh giá của anh trên góc độ văn hóa thì sao? Đây có thể là một dịp quảng bá hình ảnh của Việt Nam, giới thiệu văn hóa Việt với năm châu hay không? Bất kỳ thành phố nào trên thế giới thì sinh nhật 1000 tuổi cũng là dịp đáng để ăn mừng và kỉ niệm, dù thể chế chính trị nào đi nữa?
Nguyễn Khắc Toàn: Nhà tôi ở rất gần khu trung tâm chủ yếu của “lễ hội”, hàng ngày tôi có công việc phải đi qua đây khi chưa khai mạc lễ hội này nên tôi rất biết công tác chuẩn bị, tập dượt, tổng duyệt của ban tổ chức.
Thêm vào đó, hôm nay qua hệ thống truyền hình tôi được biết ngày đầu tiên của sinh hoạt lễ hội trong 10 ngày liên tiếp sẽ diễn ra. Nhà nước CSVN đã cho trình diễn trên sân khấu trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ trước Hồ Hoàn Kiếm trong hơn 2 giờ các màn ca kịch của các đoàn ca múa dân tộc đại diện cho một số vùng miền ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam. Có một số thể loại văn nghệ dân gian đã từng bị cấm đoán, ngăn cản, hủy diệt dập vùi thời kỳ họ thi hành chính sách cộng sản cực tả, cực đoan ở miền Bắc đã được khôi phục tái diễn công khai. Hình ảnh trang phục đặc trưng dân tộc Việt xa xưa trước kia đã tái hiện rất rõ nét trên sân khấu, như diễn viên nữ áo dài khăn đống, diễn viên nam dài áo the, khăn xếp trước kia bị coi là tàn dư của chế độ cũ, phong kiến lạc hậu, cổ hủ lại được tôn vinh ở vị trí trang trọng…
Tôi cho rằng, đấy là sự thể hiện nền văn hóa dân tộc Việt dù bị cộng sản hóa, bị văn hóa vô sản nô dịch trong nhiều năm nhưng nó vẫn trường tồn, bất tử. Trong khi đó hình ảnh người cán bộ vận đồ đại cán “Tôn Trung Sơn” cài kín cổ áo 4 túi, một thời thịnh hành và tưởng là vĩnh hằng cùng chế độ CS thì đã biến mất hẳn trong đời sống xã hội. Tôi cho rằng bản chất dân tộc và văn hóa Việt là đã có bề dầy văn hiến lâu đời mà mọi người Việt chúng ta luôn lấy đó làm niềm kiêu hãnh, tự hào, thế giới đã biết đến Việt Nam từ trước khi có sự xuất hiện của ĐCSVN, những giá trị đó không phải do đảng CS tạo nên.
Dịp này thành phố Hà Nội kỷ niệm sinh nhật tròn 1000 năm tuổi nói cho công bằng và đúng thì đây là niềm vinh dự và tự hào của cả dân tộc chúng ta. Chúng ta có quyền kiêu hãnh về điều đó, tuy nhiên nhà cầm quyền CSVN hiện nay đã có những sai lầm nặng nề về mặt chính trị, lịch sử, văn hóa, đã vung tay chi phi tốn kém khủng khiếp như vậy trong khi đời sống nhân dân nói chúng còn khốn khó, đất nước còn nghèo, vì thế đã làm giảm đi giá trị thiêng liêng của sự kiện trọng đại này rất nhiều.
Tôi nghĩ rằng, họ hoàn toàn không xứng đáng đứng trong hàng ngũ dân tộc để cùng dự niềm vui chung, lớn lao với toàn thể nhân dân ta. Họ lại càng không có đủ tư cách để đại diện cho cả dân tộc đứng ra tổ chức lễ hội ngàn năm Thăng Long như thế này vì suốt quá trình dài họ nắm quyền lực và kể cả hiện nay, họ là lực lượng chính trị phản dân tộc, phản dân chủ, thậm chí phản quốc. Tôi cũng đồng ý với chị là đây cũng là dịp tốt để chúng ta giới thiệu với bạn bè năm châu trên địa cầu nền văn hóa đa dạng phong phú của đất nước ta, nhưng nếu được tổ chức dưới quyền của một thể chế dân chủ do toàn dân xây dựng bằng lá phiếu tự do thì vẫn tốt hơn nền cai trị độc tài của ĐCSVN như hiện nay.
Mạc Việt Hồng: Xin cám ơn nhà báo Nguyễn Khắc Toàn.
© NKT, MVH
© Đàn Chim Việt

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2010

ONG CHU NUOI TRAU BAT TAY TRAO DOI, NHUNG TRAU VIET CONG VAN CU GIET NGUOI MIEN NAM , CUOP CUA VA CHUOI RUA

Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Việt Cộng và Đồng Bào Miền Nam
Theo luập pháp quốc tế, khi xâm lăng VNCH, cộng sản Bắc Việt đã phạm tội ác xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Và trong cuộc xâm lăng này, Việt Cộng đã phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam. Sau đây xin ghi lại một tội ác chiến tranh, tội cướp bóc, (pillaging).
• Chúng ăn cướp 16 tấn vàng của ngân khố quốc gia và cấp tốc chuyên chở về Miền Bắc để những tên đầu sỏ dấm dúi chia nhau như quân cướp chia của ăn cướp.
• Chúng ăn cướp các kho tàng của chính phủ, của quân đội và chuyên chở suốt ngày đêm về Miền Bắc bằng mọi phương tiện trong nhiều tháng trời.
• Chúng cướp nhà của 3,000,000 người vượt biên để chia cho nhau.
• Chúng bắt những người xuất ngoại phải hiến nhà cho chúng.
• Chúng cưỡng bức 1.5 triệu đồng bào đi “vùng kinh tế mới” để cướp nhà.
• Chúng cướp nhà của quân cán chính VNCH và chia cho nhau.
• Chúng đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cửa hàng và kho hàng của tư thương.
• Chúng ăn cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
• Chúng ăn cướp tiền của đồng bào ký thác trong các ngân hàng.
• Chúng ăn cướp tiền của dân bằng cách hạ thấp trị giá đồng bạc của VNCH và tổ chức đổi tiền 2 lần. Mỗi lần đổi tiền chúng chỉ trả lại cho một số ít để sinh sống trong một thời gian ngắn, và chúng cướp sạch số còn lại.
• Chúng ăn cướp bất động sản của các tôn giáo.
• Chúng dùng luật lệ rừng rú của chúng để cướp tất cả thổ cư của dân.
• Chúng cướp đất tha ma, đất nghĩa địa.
• Chúng cướp đất nông nghiệp của nông dân qua Luật Đất Đai ăn cướp của chúng.
Trong số những tội ác kể trên, tội cướp đất nông nghiệp của nông dân là tội ác dã man nhất. Tội ác chiến tranh này còn mang tính chất tội ác chống nhân loại bởi vì tội ác này cướp đi quyền sống của hàng chục triệu nông dân, chiếm hơn 70% dân số Miền Nam. Tội ăn cướp này đã diễn ra suốt 35 năm nay và còn đang tiếp tục. Hiện nay, trong khắp Miền Nam gần như thường xuyên có những đoàn nông dân hàng trăm người kéo nhau đi kiện và biểu tình kéo dài nhiều ngày, ăn chực nằm chờ, lây lất ngoài công viên, trên hè phố để đòi đất nông nghiệp và thổ cư bị bọn cầm quyền địa phương chiếm đoạt. Cho tới ngày nào cộng sản còn thống trị đất nước, tội ác này không thể chấm dứt bởi vì cướp đất của dân để bán đã mang lại nguồn lợi to lớn cho băng đảng Việt Cộng mà chúng không thể từ bỏ được.
Ngoài tội cướp bóc kể trên, Việt Cộng còn phạm rất nhiều tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đối với đồng bào Miền Nam một cách quy mô và có kế hoạch:
• Tội đưa đi lưu đày, (deportation), 1.5 triệu đồng bào Miền Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc mà chúng đặt cho cái nguỵ danh là “khu kinh tế mới”. Khí hậu khắc nghiệt tại những nơi lam sơn chướng khí này đã gây ra những cái chết cho nhiều chục ngàn người.
• Tội xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial, or summary, execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH trong thời gian 10 năm kể từ sau tháng 4/1075, gây đau thương suốt đời cho cho hàng trăm ngàn thân nhân ruột thịt của họ.
• Tội giết 160.000 người bằng cách đuổi theo pháo kích và bắn trực xạ trong nhiều ngày vào đoàn người chạy giặc suốt theo chiều dài của Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku xuống duyên hải trong tháng 3/1975, để lại đau thương suốt đời cho hàng trăm ngàn thân nhân của họ.
• Tội giam cầm phi pháp, (imprisonment without formal charge or trial), 1,000,000 quân dân cán chính VNCH trong những cái gọi là “trại cải tạo” với thời gian bị giam cầm là từ 3 tới 10 năm, và có nhìều người đã bị giam tới 17 năm. Tội ác này đã gây đau khổ tinh thần cho hàng triệu thân nhân ruột thịt của họ.
• Tội ác thủ tiêu mất tích, (enforced disappearance of persons), 165,000 quân dân cán chính VNCH bị chết vì đòn thù trong các trại tù cải tạo. Hiện nay, Việt cộng còn đang chôn giấu 165,000 bộ hài cốt của những người này trong rừng núi với chủ tâm trả thù, gây thống khổ tinh thần suốt 35 năm nay cho hàng trăm ngàn cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
• Chế độ độc tài khủng bố Việt Cộng đã là nguyên nhân xô đẩy 3,000,000 đồng bào Miền Nam lao ra biển trên những con thuyền mỏng manh để đi tìm tự do, gây ra những cái chết thảm cho 700,000 đồng bào trên biển cả, để lại đau thuơng suốt đời cho hàng triệu cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
Một số tội ác kể trên đã đủ để chứng minh rằng hầu hết các gia đình tại Miền Nam đều là nạn nhân của tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại của băng đảng cộng sản. Chính những tội ác này đã gây ra hận thù và chia rẽ không thể hoà giải giữa Việt Cộng và đồng bào Miền Nam. Do đó, những thiện chí (?) kêu gọi hoà giải giữa cộng sản với người dân Miền Nam và với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại trong lúc này là đồng loã với những tội ác của chúng, là chuyện đặt cái cày trước con trâu.
Những Tội Ác Gây Chia Rẽ Giữa Người Việt và người Việt
Như đã trình bày ở trên, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược một quốc gia thù địch. Chúng thi hành một chính sách phân biệt đối xử nhằm chia rẽ dân tộc. Chúng gọi một cách mất dạy, láo xược toàn dân Miền Nam là “nguỵ”, và chúng tôn xưng một cách trâng tráo bọn Nam gian, bọn ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, bọn nằm vùng và hàng triệu người được chúng đưa từ Miền Bắc vào xâm thực Miền Nam là “quần chúng cách mạng”. Chính sự phân biệt trên danh nghĩa này đã là nguyên nhân đầu tiên gây chia rẽ không thể hoà giải giữa người Việt với người Việt. Chỉ cần quan sát những sự kiện đã và đang diễn trong xã hội Miền Nam từ ngày 30/4/1975 đến nay sẽ thấy rõ sự chia rẽ trầm trọng giữa hai thành phần người Việt nói trên là không thể hoà giải được chừng nào cộng sản còn thống trị đất nước.
• Chúng triệt hạ khoảng 50 nghĩa trang QĐVNCH trong toàn Miền Nam bằng cách đào các mộ phần, lấy hài cốt mang đi thủ tiêu và san thành bình địa; trong khi đó chúng xây cất rất “hoành tráng” một số tương đương các nghĩa trang liệt sĩ của chúng trong khắp các tỉnh thành Miền Nam. Đây là việc làm có chủ tâm gây chia rẽ không thể hoà giải giữa hàng triệu thân nhân của hai phe người Việt.
• Chúng cố tình triệt hạ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà - nơi an nghỉ của 16,000 anh hùng tử sĩ của QLVNCH - bằng cách giật sập và mang đi thủ tiêu Bức Tượng Thương Tiếc. Chúng đập phá các mộ bia, san bằng các ngôi mộ, không cho thân nhân sửa sang, tảo mộ. Chúng chủ tâm để cho thời gian tàn phá di sản lịch sử quốc gia này; trong khi đó, cách đấy không xa, chúng xây cất một nghĩa trang liệt sĩ rất quy mô, “hoành tráng”, được canh gác, tu bổ, sơn phết hàng ngày, có cửa hàng bán đồ lưu niệm… Sự phân biệt đối xử đối với những người chết đã gây chia rẽ trầm trọng, không thể hoà giải giữa đồng bào Miền Nam và người của phe chúng.
• Chúng đuổi hàng chục ngàn thương binh VNCH ra khỏi các quân y viện trong toàn Miền Nam để chiếm chỗ cho thương binh của chúng. Những người thương binh sa cơ, thất thế đã phải dìu nhau ra khỏi các quân y viện, lê lết trên đương phố với thương tích đầy mình. Cảnh tượng thương tâm này đã làm đau lòng đồng bào Miền Nam. Sự phân biệt đối xử dã man, vô nhân tính của Việt Cộng đã chồng chất thêm tội ác của chúng đối với đồng bào Miền Nam. Loài dã thú cũng không đối xử với đồng loại của chúng như băng đảng Việt Cộng đối xử với đồng bào của chúng!
• Ngay sau ngày 30/4/1975, cộng sản đã đưa hơn một triệu người từ Miền Bắc vào Sàigòn để chiếm đoạt những căn nhà của hàng trăm ngàn người chạy giặc để lại và của gần một triệu người Sàigòn bị chúng đưa đi đày tại những “khu kinh tế mới”. Những “quần chúng cách mạng” khố rách áo ôm này cùng với quân chiếm đóng dép râu nón cối đã chiếm đoạt hết những khu phố biệt thự sang trọng nổi tiếng của Sàigòn như Công Lý, Duy Tân, Bà Huyện Thanh Quan, Yên Đổ…và các khu phố buôn bán sầm uất như Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Gia Long, Lê Thánh Tôn…Chúng coi Sàigòn là chiến lợi phẩm để đem chia chác cho nhau. Người Sàigòn, một sớm một chiều, cảm thấy mình bị cướp trắng tay; Sàigòn đổi chủ, đổi tên; khắp ngõ, hẻm, phố phường, công sở…vang lên cái giọng the thé Bắc Kỳ 75 chói tai, lạ hoắc cùng với dép râu nón cối làm bẩn Hòn Ngọc Viễn Đông tráng lệ. Cái cảm thức mất mát này đã gây chia rẽ không thể hoà giải giữa những kẻ xâm thực và người dân của thành phố bị xâm thực.
• Những người xâm thực Miền Bắc đã giành hết những chức vụ tại các công sở, công ty, xí nghiệp… có lương bổng cao. Một thí dụ điển hình là tại công ty hàng không quốc doanh có trụ sở tại Sàigòn, cho tới ngày hôm nay, hầu hết tiếp viên hàng không - một công việc có lương bổng rất cao - đều là người có gốc gác miền Bắc; người dân Miền Nam rất khó chen chân vào được. Sự kỳ thị này đã hình thành nên một giai cấp làm chủ là người Bắc và giai cấp làm công là người Nam. Sự chia rẽ này là không thể hoà giải được giữa nguời Việt và người Việt
• Hàng trăm ngàn người – trong số 1.5 triệu người bị đưa đi đày tại những khu kinh tế mới – đã bỏ trốn, và khi trở về thì thấy ngôi nhà khang trang xây dựng bằng công lao, mồ hôi nước mắt của cả gia đình đã bị một kẻ lạ mặt từ Miền Bắc vào chiếm đoạt một cách “vô tư”, công khai và “hợp pháp”. Người bị cướp nhà phải sống lê lết trên vỉa hè, dưới mái hiên của nhà mình. Kẻ cướp và người bị cướp không thể hoà giải và sống chung hoà bình với nhau được.
Một số sự kiện trên đây đủ để chứng minh rằng chính sách thực dân nội địa và sự phân biệt đối xử của Việt Cộng đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt và người Việt. Chừng nào chúng còn thống trị đất nước thì không thể có hoà giải, và sự chia rẽ dân tộc càng trầm trọng thêm. Tất cả những tội ác của băng đảng Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam đã được chúng chủ trương và hoạch định từ trước chứ không phải là những sai lầm như một số luận điệu bao che cho tội ác của chúng và cho rằng chỉ cần một lời xin lỗi của chúng là đủ để hoà giải dân tộc.
Con Đường Hoà Giải Dân Tộc
Kể từ sau ngày 30/4/1975, Việt Cộng luôn luôn lớn tiếng huyênh hoang rằng chúng đã đại thắng và thống nhất được đất nước. Nhưng thực tế cho thấy suốt 35 năm nay và sẽ không bao giờ chúng có thể thống nhất được nhân tâm. Với sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế, Việt Cộng có thể sử dụng vũ lực để thống nhất lãnh thổ. Nhưng với chính sách thực dân nội địa và chủ trương phân biệt đối xử “nguỵ-cách mạng” đã và đang diễn ra tại Miền Nam suốt 35 năm nay, chúng không thể thống nhất được nhân tâm mà chỉ làm băng hoại thêm tình đoàn kết dân tộc.

VANG LENH NGA TAU: VIET CONG HO CHI MINH CHI GIET NGUOI VIET

Trong suốt dòng lịch sử kể từ khi lập quốc cho tới ngày nay, dân tộc Việt Nam chưa có thời kỳ nào bị phân hoá và chia rẽ trầm trọng như thời kỳ dưới sự thống trị của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng. Sự phân hoá và chia rẽ dân tộc mỗi ngày một thêm trầm trọng và đã di căn vào mọi ngõ nghách trong cơ thể xã hội và đang biến chứng thành một cơ thể liệt kháng, không còn đủ khả năng và ý chí chống lại mưu đồ bành trướng ngàn đời của quân Đại Hán từ phương bắc hiện đang đè nặng lên đất nước và được nội ứng bởi bọn Việt gian cộng sản. Do đó, hoà giải dân tộc để thống nhất ý chí và tư tưởng là một nhu cầu lịch sử có tính sinh tử. Tuy nhiên, công việc này chỉ có thể thực hiện được sau khi chế độ độc tài toàn trị Việt Cộng bị thanh toán, bởi vì chính chế độ phi dân tộc này đã là thủ phạm của những tội ác gây phân hoá và chia rẽ dân tộc từ hơn nửa thế kỷ nay. Cộng Hoà Nam Phi đã thực hiện được hoà giải dân tộc sau khi chế độ phân biệt chủng tộc bị xoá bỏ. Với sự trợ giúp về pháp lý và tài chánh của cộng đồng quốc tế, dân tộc Căm Bốt đang thực hiện hoà giải dân tộc sau khi chế độ cộng sản Khờ Me Đỏ bị tiêu diệt. Đây là mẫu hình cần nghiên cứu để áp dụng vào Việt Nam sau này.
Tội Ác Của Hồ Chí Minh Đối Với Dân Tộc Việt Nam
Kể từ khi nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 cho tới ngày hôm nay, Hồ Chí Minh và đồng đảng - với chủ trương đấu tranh tiêu diệt giai cấp - đã gây muôn vàn tội ác nhằm phân hoá và chia rẽ dân tộc để dễ bề thống trị đất nước. Những tội ác của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng chính là những tội ác của Stalin đối với dân tộc Nga. Hồ Chí Minh - một tên Bolshevik thâm căn - là tên học trò trung thành và xuất sắc của Stalin. Đối với Hồ Chí Minh, Stalin là một lãnh tụ thần tượng không bao giờ sai lầm. Hồ Chí Minh đã tôn thờ Stalin là cha già của thế giới xã hội chủ nghĩa trong đó có Miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh là đầu đảng. Những tội ác của Stalin đã được chế độ Liên Xô bưng bít từ hơn nửa thế kỷ nay. Nhưng mới đây, Tổng Thống Nga Dmity Medvedev - sau một thời gian chờ đợi lâu dài - đã công bố trước thế giới những tội ác khủng khiếp, dã man của Stalin và chế độ Liên Xô.
Ngày 7/5/2010 - hai ngày trước lễ kỷ niệm được tổ chức tại Nga để đánh dấu 65 năm ngày chấm
dứt Thế Chiến II tại Âu Châu - trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Izvestia, Tổng Thống Medvedev đã công bố những tội ác của chế độ Liên Xô và của Stalin đã bị che giấu từ hơn một nửa thế kỷ nay như sau:
• Chế độ trị vì ở Liên Xô không thể xác định bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thật không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản của con người, và không chỉ với người dân của chính mình mà với cả nhân dân của các nước nằm trong khối cộng sản cũng đã gần nửa thế kỷ chịu chung một số phận tương tự. Đây là tôi muốn nói tới các nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều này không thể bị xoá khỏi lịch sử. (Người viết chú giải: Đây là những tội ác chống nhân loại, (crimes against humanity), của chế độ độc tài toàn trị Liên Xô đối với người dân Nga. Chế độ Việt Cộng hiện nay - cũng là một chế độ độc tài toàn trị kiểu Stalin - đã và đang gây những tội ác chống nhân loại - tức tội đàn áp các quyền tư do cơ bản của con người - đối với dân tộc Việt Nam).
• Các sĩ quan Ba Lan bị sát hại ở Katyn năm 1940 đã bị giết theo lệnh của chính quyền Liên Xô trong đó có Joseph Stalin. (Người viết chú giải: Đây là tội ác xâm lược, (the crime of aggression), đối với Ba Lan và tội ác chiến tranh, (war crimes), tội giết tù binh Ba Lan. Việt Cộng - vói sự yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế - cũng đã phạm tội ác xâm lược đối với VNCH trong tháng 4/1975 và rất nhiều tội ác chiến tranh như cướp bóc, (pillaging), giết người vô luật pháp, (extrajudicial execution)…).
• Stalin là kẻ giết người hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được. (Người viết chú giải: Đây là tội ác diệt chủng, (the crime of genocide). Stalin đã giết 6,000,000 người Ukraine bằng cách gây ra nạn đói giết người trong mùa đông năm 1932-1933. Hồ Chí Minh cũng phạm tội ác diệt chủng đối với dân tộc Việt Nam. Trong vụ cải cách ruộng đất tại Miền Bắc, Hồ Chí Minh đã bức hại và giết 700,000 người, tức 5% trong số 14 triệu nông dân Miền Bắc).
• Stalin chính là tên tội đồ của dân tộc Nga. (Người viết nhận định: Hồ Chí Minh cũng chính là tên tội đồ của dân tộc Việt Nam).
• Nếu ngày hôm nay nhắm mắt trước tội ác này (tội ác giết tù binh Ba Lan của Stalin tại khu rừng Katyn) thì trong tương lai những tội ác như vậy sẽ có thể lặp lại ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Những tội ác tày trời như vậy không bao giờ hết thời hiệu pháp lý. Những người gây tội ác bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm cũng phải chịu trách nhiệm. Đây là trách nhiệm đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm. (Người viết nhận định: những tội ác giết người như trên đây đã diễn ra tại Việt Nam. Trong tết Mậu Thân năm 1968, cộng sản đã giết và thủ tiêu 6,000 người dân tại Huế. Sau tháng 4/1975, cộng sản đã xử tử một cách phi pháp, (extrajudicial execution), 100,000 quân dân cán chính VNCH. Tố cáo những tội ác của Việt Cộng là trách nhiệm đạo đức của mọi người Việt Nam. Những tội ác này không bao giờ hết thời hiệu pháp lý).
• Sự trở lại của chủ nghĩa Stalin đã bị loại trừ. (Người viết nhận định: chủ nghĩa Stalin vẫn còn được Việt Cộng tôn thờ và chúng còn đang áp đặt một cách thô bạo lên dân tộc Việt Nam).
Những tội ác kể trên của Stalin và Hồ Chí Minh là những tội ác đại hình có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome và thuộc quyền tài phán của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. Cho tới ngày hôm nay, những tên đầu sỏ Việt Cộng còn đang câm miệng hến trước những tội ác được công bố trên đây bởi vì đó là những sự thật không thể chối cãi.
Khi công bố những tội ác của Stalin và của chế độ Liên Xô đối với nhân dân Nga và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa trong khối Xô Viết, Tổng Thống Medvedev đã mở ra một chương mới trong lịch sử thế giới, dẫn tới việc xét lại toàn bộ tội ác của chế độ Liên Xô đã bị che giấu từ năm 1917 tới năm 1991 cũng như những tội ác đã bị che giấu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin từ hơn nửa thế kỷ nay trong đó có chế độ Việt Cộng mà tên đầu đảng là Hồ Chí Minh. Những công bố trên đây của Tổng Thống Medvedev vào thời điểm này - tiếp theo sau Nghị Quyết số 1481 năm 2006 của Nghị Viện Âu Châu lên án các chế độ cộng sản - là bước cuối cùng tiến tới việc vứt bỏ toàn bộ chủ nghĩa cộng sản vào thùng rác lịch sử của nhân loại.
Tội Ác Của Cộng Sản Đối Với Đồng Bào Miền Nam Việt Nam
Không giấy mực nào có thể ghi hết những tội ác của Hồ Chí Minh và băng đảng Việt Cộng đối với dân tộc Việt Nam trong suốt 80 năm nay. Tuy nhiên, nhằm mục đích chứng minh rằng những chia rẽ do Việt Cộng gây ra là không thể hoà giải được chừng nào chúng còn thống trị đất nườc, bài viết này chỉ thu hẹp vào một số ít tội ác tượng trưng của Việt Cộng đối với đồng bào Miền Nam kể từ sau ngày 30-4-1975 cho tới ngày hôm nay, và từ đó có thể suy ra những tội ác của chúng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam.
Khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã hành xử như một đạo quân thực dân đi xâm lược đô hộ một quốc gia thù địch mà một nhà báo người Pháp đã nhận định rằng đây là một kiểu thực dân nội địa, (auto-colonisation). Với tính cách là đạo quân xâm lược, băng đảng Việt cộng chính là kẻ thù của toàn dân Miền Nam, giặc từ Miền Bắc vô Nam! Ngay khi chiếm được Việt Nam Cộng Hoà, chúng lập tức xoá bỏ chính quyền chính thống quốc gia đương nhiệm, bỏ tù tất cả quân cán chính VNCH dưới cái nguỵ danh “học tập cải tạo” để trả thù. Chúng thành lập một chính quyền đô hộ thực dân nội địa từ trung ương tới địa phương gồm toàn những cán binh, cán bộ của chúng từ Miền Bắc đưa vào với cung cách hành xử theo một thứ “văn hoá xã hội chủ nghĩa” rừng rú rất xa lạ với đồng bào Miền Nam. Với chính quyền thực dân nội địa độc tài trong tay, chúng áp dụng một phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp rất dã man mà chúng đã có kinh nghiệm từ Miền Bắc, và cùng lúc, chúng phạm những tội ác gây xung đột và chia rẽ trầm trọng giữa chúng với người dân Miền Nam và giữa người Việt với người Việt.
Phương Pháp Cai Trị Bằng Khủng Bố và Kìm Kẹp
So với phương pháp cai trị bằng cách chia để trị của thực dân Pháp, phuơng pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp của băng đảng Việt Cộng đã chứng tỏ rằng chúng là bậc thày:
a) Với chính sách hộ khẩu và tem phiếu lương thực, trong thực tế, cộng sản đã chỉ định nơi cư trú, kiểm soát sự di chuyển và cái dạ dầy của người dân Miền Nam. Đây là một hình thức giam lỏng. Với chủ trương thâm độc “ăn không no, đói không chết”, hàng tháng chúng cung cấp cho mỗi người 12kg gạo hay bo bo - một loại lương thực để nuôi gia súc - quy ra gạo cùng với 200gr đường và vài lạng thịt… Với chính sách nuôi ăn như nuôi súc vật, nuôi tù trên đây, cộng sản tin rằng quanh năm suốt tháng người dân chỉ mải miết lo cái ăn và không còn tâm trí để chống lại chúng, và nếu người nào chống đối, chúng sẽ cắt tem phiếu lương thực và bao vây kinh tế, tức cắt nguồn sống. Tại Miền Bắc, vào năm 1956, chỉ vì tham gia vào phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm - một phong trào đòi tự do dân chủ cho đồng bào Miền Bắc - mà nhà đại trí thức khoa bảng, giáo sư đại học Nguyễn Mạnh Tường đã bị cắt tem phiếu lương thực và bị bao vây kinh tế trong suốt 30 năm. Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường cùng với vợ con đã phải sống 30 năm ngắc ngoải như những “con ma đói” trong cái “thiên đường xã hội chủ nghĩa” Miền Bắc.
b) Với hệ thống công an khu vực dày đặc, cộng sản đã theo rõi và kiểm soát được tư tưởng và hành động của mọi người. Cộng sản tổ chức mỗi người dân là một điểm chỉ viên có bổn phận phải theo rõi, dò la, báo cáo hành động và tư tưởng của người khác ngay cả với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái trong gia đình, và ngược lại, người điểm chỉ viên đó lại bị người điểm chỉ viên khác theo rõi và báo cáo… Cộng sản đã chủ tâm tạo một không khí khủng bố bao trùm trong xã hội, và mọi người luôn luôn sống trong sợ hãi và đề phòng bị ám hại. Với kiểu khủng bố này, cộng sản đã làm tê liệt ý chí và sức đối kháng của người dân.
c) Cộng sản đoàn ngũ hoá toàn dân để kiểm soát và theo rõi. Tất cả mọi người, bất kể già, trẻ, lớn, bé, đều phải tham gia vào một tổ chức do chúng kiểm soát như: đội nhi đồng cứu quốc, hội phụ nữ cứu quốc, đoàn thanh niên xung phong, hội nhà văn, hội trình diễn nghệ thuật…Trong các hội đoàn này, cộng sản tổ chức những buổi sinh hoạt định kỳ, và các hội viên phải thay phiên nhau “phê và tự phê” để tự tố cáo mình và tố cáo người khác về những hành vi, tư tuởng bị cho là sai trái với chủ trương, đường lối của đảng cộng sản. Từ những buổi sinh hoạt gọi là “phê và tự phê” này, cộng sản nhận diện được những người mà chúng cần theo rõi, đàn áp và thủ tiêu.
d) Với chính sách “học tập cải tạo”, Việt Cộng đã nâng kỹ thuật khủng bố của chúng lên hàng siêu đẳng. Chỉ cần một cái lệnh hành chánh của một chính quyền địa phương cấp thấp là đủ để chúng đưa một người dân lương thiện đi tù khổ sai từ ba năm tới chung thân với cái chiêu bài rất đểu giả là đi học tập để thông suốt đường lối của đảng, và khi nào học tập tốt, cải tạo tốt thì về. Vào năm 1956, tại Miền Bắc, cộng sản đã đưa Triết Gia Trần Đức Thảo - triết gia ngây thơ (?) đã trao tất cả nhiệt tình yêu nước cho tên phản quốc Hồ Chí Minh - đi học tập cải tạo bằng cách cho đi chăn bò tại nông trường Ba Vì để suy tư thêm về chủ nghĩa Mác-Lê chỉ vì tội tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Sau tháng 4/1975, Việt Cộng đã đưa 1,000,000 quân dân cán chính VNCH đi tù cải tạo. Theo tài liệu của tổ chức Tưởng Niệm Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản, “The Victims of Communism Memorial Foundation”, thì Hồ Chí Minh đã giết 850,000 người trong những trại tù cải tạo tại Miền Bắc. “… When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in re-education camps”. Nếu ước tính số người chết trong các trại cải tạo là 15% thì số người bị Hồ Chí Minh đưa đi cải tạo tại Miền Bắc là 6,000,000 người. Tính chung lại, cộng sản đã đưa đi tù cải tạo 7,000,000 người, và nếu tính trung bình số năm tù của mỗi người là 7 năm thì số năm tù của 7,000,000 người là 49,000,000 năm. Trong khi đó, để tố cáo chế độ tù đày của thực dân Pháp, trong một bài diễn văn đọc ngày 1-5-1960, Hồ Chí Minh đã công bố rằng 31 thành viên đương nhiệm của ban chấp hành trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị giam tổng cộng là 222 năm trong các nhà tù của thực dân Pháp.
Với phương pháp cai trị bằng khủng bố và kìm kẹp dã man trên đây, cộng sản đã coi người dân Miền Nam là những kẻ thù giai cấp không đội trời chung của chúng. Đây chính là bước đầu tạo ra chia rẽ không thể hoà giải giữa cộng sản và người dân Miền Nam. Bước tiếp theo là những tội ác dã man mà chúng đã vi phạm một cách quy mô và có kế hoạch.

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009

VIET CONG GIET 150 NGAN TU BINH VNCH SAU 75. VC KILLED WAR PRISONERS IN LABOR CAMPS AFTER 75

VIETNAM WAR ENDED 4-75: 3 MILLION DIED AND

VIET CONG TOOK AVENGE BY BLOODY MASSACRES ON WAR PRISONERS OF SOUTH VIET NAM AFTER 4-1975

the Dart Center for Journalism & Trauma web site.
Message from Sender:
IN HONOR OF THE TENS OF THOUSANDS OF MEN AND WOMEN WHO DIED IN VIETCONG'S LABOR CAMPS
At least 165,000 people perished in Vietnam's re-education camps after the fall of Saigon in 1975, according to published research in the United States and Europe. The Hanoi government declines comment. Following is a partial list documented by the Vietnam Human Rights Watch, a privately funded organization.
Sgt. Abdul Hamide, Tan Lap Camp (Vinh Phu), died in 1979. Ali Hung, Navy Seals, executed. Capt. Anh Dong, Paratrooper Camp 5, Ly Ba So Camp (Thanh Hoa), died in detention. 1st Lt. Au Duong Diep, Z30-A Camp, died from hunger strike in 1980. Capt. Au Duong Minh, national police, Z20-A Camp, died from hunger strike in 1979. Lt. Col. Bach Van Hien, air traffic control at Tan Son Nhat Airport, died of untreated illness at unknown location in North Vietnam. 2nd Lt. Bao Thanh, 1st Supply Battalion, Long Giao Camp (Dong Nai), executed at labor site in December 1978. Bao Trong, deputy commander for national police, Phan Dang Luu Detention Center, died after repeated torture. Lt. Bon (family name unknown), national police, Camp 4 (Yen Bai), died in detention. 2nd Lt. Bui Bang Bim, Thanh Hoa Camp, hanged . Lt. Col. Bui Hien Ton, national police, Thanh Hoa Camp, died in 1979. Lt. Col. Bui Hong Viet, military police, died of untreated illness. Cpl. Bui Huu Kiet, Nha Do Camp (Song Be), died of malnutrition and overwork on April 10, 1977. Bui Huu Kiet, Nha Do Camp, tortured to death in 1977. Bui Huu Tinh, Nam Ha Camp, died under interrogation in 1979. Capt. Bui Kim Dinh, Office of Military Security, shot by a camp guard, July 1975. Sgt. Bui Long Tim, Binh Dinh National Police Command, Z30-A Camp, died of pneumonia in August 1982. Bui Luong, head of a labor union, Xuan Phuoc Camp, died in 1984. Bui Ngoc Phuong, presidential candidate, Xuan Phuong Re-education Camp (Phu Khanh), died in 1983. Maj. Bui Nguyen Nghia, infantry, Xuan Phuoc Camp, died in 1980. 1st Lt. Bui Quoc Dong, Counter Intelligence Bureau, Ha Tay Camp, died of suspected poison injection in March 1982. Maj. Bui Van Ba, Vinh Liem Military Training Center, died in 1975. 1st Lt. Bui Van Bai, Vung Tau National Police Headquarters, Nam Ha A Camp, died in 1979. Maj. Bui Van Lang, national police, died during transfer from North to South Vietnam. Brig. Gen. Bui Van Nhu, national police, Nam Ha Camp, died in 1983. Col. Bui Van Sam, 33rd Ranger Brigade, Z30-C Camp, died in 1983. Rev. Bui Van Thay, Catholic priest, My Tho K3 Camp (Vinh Phu), died in early 1980. Capt. Cam (family name unknown), artillery division, died at unknown location in North Vietnam. Lt. Col. Can (family name unknown), military choir, Son La Camp, died of liver disease in 1976. Maj. Cang Van Nhieu, Suoi Mau Camp, died of diarrhea in 1979. Capt. Cao Phuoc An, artillery unit in Vinh Long Province, Tan Hiep Camp, died in 1978. Capt. Cao Quang Chon, prosecutor, K2 Camp (Thanh Phong, Thanh Hoa), disappeared after interrogation. Lt. Col. Cao Tan Hap, governor of Vinh Binh Province, Camp No. 6 (Nghe Tinh), died in 1978. Lt. Col. Cao Trieu Phat, paratrooper, died at unknown location in North Vietnam. Capt. Cao Xuan Huong, Lam Dong Camp, died in 1982. Judge Chau Tu Phat, Saigon District Court, U Minh Ha Camp, died under interrogation. Capt. Chieu (family name unknown), military police, An Duong Camp, died of illness in 1976. Capt. Chu Minh Loc, deputy chief for military security in Tuyen Duc Province, Hoang Lien Son Camp, beaten to death after failed escape. Col. Chung Van Bong, governor of My Tho Province, detention center in Bien Hoa, died of illness. Capt. Chuong (family name unknown), T3 Camp (Hoang Lien Son), drowned along with seven others. Capt. Cu (family name unknown), military police, Hoang Lien Son Camp, drowned at Thac Ba Falls during hard labor on Sept. 28, 1976. Cu Minh Kien, chief of Can Dang Hamlet, executed at Chuong Binh Le School. Capt. Cuu (family name unknown), Vuon Dao Camp (Cai Lay), died in 1979. Capt. Dam Dinh Loan, military academy, Van Ban Labor Camp No. 4, died in 1977 of unknown cause. Lt. Col. Dam Minh Viem, engineer corps, Suoi Mau Camp, committed suicide in February 1976. Col. Dam Trung Moc, police academy, Ha Tay Camp, died in 1982. Capt. Dan (family name unknown), retired, executed at Binh Minh Camp. Capt. Dan (family name unknown), Nam Ha Camp, died of hypothermia during winter of 1978. Maj. Dang (family name unknown), ordnance officer, Gia Trung Camp, died in 1979. Lt. Col. Dang Binh Minh, helicopter pilot for the president, Yen Bay Camp, died in 1978 or 1979. Officer Dang Dinh Tung, Trang Lon Camp (Tay Ninh), committed suicide with an overdose of chloroquine. Capt. Dang Duc Chau, Hoang Lien Son Camp; camp authorities said he drowned on July 8, 1978. Commander Dang Huu Than, council member of Khanh Hoa, A-30 Camp, executed after failed escape. Capt. Dang Minh Kinh, 9th Infantry Division, 9A Camp (Thanh Hoa), died in September 1981. Notable Dang Ngoc Liem, Cao Dai Religious Sect, executed in Tay Ninh. Dang Van Kien, national police, Quang Ngai Province, forced into a well with 11 other political prisoners and killed with a grenade explosion in 1975 in Tu Thinh, Quang Ngai. Col. Dang Van Thanh, regiment commander of 21st Infantry Division, Chuong Trau Camp (Yen Bai), died in 1976 after failed escape. Congressman Dang Van Tiep, House of Representatives, Thanh Hoa Camp, beaten to death during solitary confinement in 1982. Master Sgt. Dang Xuan Hoan, national police, Phu Huu Detention Camp (Binh Duong), taken into the woods by camp guards and executed on May 15, 1975, along with 12 other political prisoners. Lt. Col. Dang Xuan Nong, ordnance officer, Khanh Hoa Prison, died in detention. Capt. Danh (family name unknown), medical assistant in 4th Military Zone, Hoang Lien Son Camp, died of diarrhea. Dao Cong Hoang, teacher of French literature at Chu Van An High School, Song Cai Camp, died of malnutrition and exhaustion in March 1981. Lt. Col. Dao Ngoc Thanh, chief of staff's office, died at unknown location. Dao Quy Binh, died from a hunger strike. 1st Lt. Dao Thanh Ta, national police, Z30-D Camp, died from lack of medication for asthma in late 1978. Maj. Dau Quang Duong, Cay Mai Intelligence Unit Camp C, Phu Son 4 (Bac Thai), died in detention. Deo Van Ngay, civil servant, executed after failed escape in 1978. Maj. Diep Van Sa, chief of Military Security Section, Vinh Quang Camp, died of tuberculosis in 1980. Officer Dieu (family name unknown), An Duong Re-education Camp, died of illness in 1976. Capt. Dieu Chinh Thang, Ham Tri Camp, last seen alive in 1976 by fellow inmates. Congressman Dinh On, House of Representatives, Kim Son Camp (Binh Dinh), died from beating. 1st Lt. Dinh Quang Ha, Tan Bien Camp, executed on Dec. 15, 1977, after failed escape. Family denied permission for proper burial. Dinh Reu, ranger for Border Patrol Battalion 69, Son Nhom Camp, died of fever. Dinh Van Bien, Vietnam's Nationalist Party, Tien Lanh Camp (Quang Nam), died in detention. Lt. Col. Dinh Van Tan, department of defense, Yen Bay Camp, died of food poisoning. Maj. Do Dinh Ky, Long Giao Camp (Long Khanh), died in 1975. Officer Do Huu Tai, Xuyen Moc Camp, executed on May 26, 1980, after failed escape. Maj. Do Huu Tuoc, Dalat Military Cadet Academy, Lang Son Camp, died in detention. Maj. Do Kien Nau, national police, Ha Tay Camp, died in 1977. Lt. Col. Do Ngoc Anh, navy, accidental death during forced labor in 1976. 1st Lt. Do Rang Dong, paratrooper, Long Khanh Camp, killed in 1976 by explosion while clearing land mines. Do Van Diem, Dong Nai Re-education Camp, died of malaria on April 3, 1979. Capt. Do Van Muoi, Phoenix Program, executed after failed escape. Capt. Do Van Nhi, Ly Ba So Camp (Thanh Hoa), died in detention. Capt. Do Van Toan, Infantry Camp K1, died in 1982. Sgt. Do Van Tuong, Ninh Thuan National Police Command, Song Cai Camp, died from dengue fever in November 1975. Col. Do Xuan Sinh, deputy director of Military Supplies Office, Hoang Lien Son Camp, died in detention. Col. Doan Boi Tran, deputy chief of staff for political warfare, Z30-C Camp, died upon release due to illnesses contracted in detention. Maj. Doan Huu Tu, Nam Ha Camp, died during interrogation. Lt. Col. Doan Minh Viem, engineer corps, Suoi Mau Camp (Bien Hoa), committed suicide. Doan Quang Chau, Rural Pacification Program, K20 Camp (Ben Tre), died on Dec. 15, 1978, along with 16 inmates. Maj. Doan The Don, Office of the Military Inspector General, Thanh Xuong Camp (Thanh Hoa), died in detention. 1st Lt. Doan Tu Bang, Long Khanh Camp, killed by explosion while clearing land mines. Lt. Col. Doan Van Anh, 4th Military Zone, Yen Bai Camp, died from exhaustion. Doan Van Chau, Rural Pacification Program, executed. Maj. General Doan Van Quang, commander of special forces, Ha Tay Camp, died in 1984. Officer Doan Van Xuong, Military Cadet Academy Camp T6, Nghe Tinh Camp, beaten to death after failed escape in December 1980. Lt. Col. Doan Viet Thuyen, Thu Duc Military Academy, Z30-D Camp, died on April 29, 1987. Lt. Col. Doan Xuan Viem, Muong Khai Camp (Son La), died in detention. Lt. Col. Don (family name unknown), mayor, executed at the soccer field in Bac Lieu on June 1975. Maj. Dot (family name unknown), Soc Trang Militia Unit, executed in Soc Trang in 1975. Maj. Duc (family name unknown), Suoi Mau Camp (Bien Hoa), died of diarrhea. 2nd Lt. Duc (family name unknown), national police's soccer team, Camp No. 4 (Yen Bai), died in detention. 2nd Lt. Duc (family name unknown), Air Force, Ka Tum Camp (Tay Ninh), died in 1978. Maj. Duong (family name unknown), military security unit, Thanh Phong Camp, died from untreated appendicitis in 1982. Lt. Col. Duong (family name unknown), national police, executed. Capt. Duong (family name unknown), military doctor, 2nd Infantry Division, T4-LT2 Camp (Son La), beaten to death after failed escape in February 1977. Duong Duc Thuy, Ministry of Justice, Ha Tay Camp, died in 1978. 1st Lt. Duong Hung Cuong, writer, Xuan Phuoc Camp, died in solitary confinement. Duong Mai, Tien Lanh Camp, executed in 1980 after failed escape. Capt. Duong Ngoc Lam, Vinh Phu Camp, died in detention. Col. Duong Phun Sang, deputy commander of 5th Infantry Division, Hoang Lien Son Camp, died in 1977. Pvt. Duong Thu, Xuan Loc Camp, executed on Dec. 15, 1975, after failed escape. Ga (family name unknown), communications officer, Son Cao Camp, died of dengue fever in 1975. Col. Giam (family name unknown), An Duong Camp (Bien Hoa), died of tuberculosis in 1976. 1st Lt. Giang (family name unknown), military doctor, Ai Tu died in detention. Rev. Giu-se Dinh Nam Hung, Catholic priest, Vinh Quang Camp, died from mine explosion in 1980, along with some 60 inmates. Lt. Col. Ha Hau Sinh, Air Force, Tan Lap Camp, died from illness in 1980. Capt. Ha Hong, national police in Da Nang province, An Diem Camp, died in detention. Lt. Col. Ha Huu Hoi, commanding officer from Mobilization Center No. 3, died in north Vietnam. 1st Lt. Ha Minh Tanh, Trang Lon Camp, executed for insubordination in 1979. 1st Lt. Ha Thuc Long, 3rd Regiment -- 1st Division, Ky Son Camp, executed in 1977 for criticizing camp authorities. Lt. Col. Ha Thuc Ung, company leader for militia forces, Phu Yen Camp, killed after failed escape. Capt. Ha Van Kham, Song Tranh Camp, executed. Capt. Ha Van Kinh, chairman of Kien Hoa Provincial Council, Ben Tre Detention Center, executed with 11 fellow inmates on Dec. 25, 1977. Capt. Hao (family name unknown), Thanh Phong Camp, died in 1981. 1st Lt. Hau (family name unknown), navy, Ka Tum Re-education Camp, tortured and executed after failed escape in 1977. Lt. Col. Hau Cam Pau, inspector general of Long Khanh province, Nam Ha A Camp, died in 1984. Lt. Col. Hien (family name unknown), Vinh Phu Camp, died Jan. 15, 1980. Lt. Col. Hien (family name unknown), artillery, Gia Trung Camp, died in 1980. Capt. Hien (family name unknown), An Duong Camp (Bien Hoa), died in solitary confinement in 1976 for letting the guards' pigs under his charge die. Hien (family name unknown), Chi Hoa Central Prison, killed in 1981 at Thu Duc execution ground. Lt. Col. Hieu (family name unknown), chief of staff's office, T4-LT2 Camp (Son La), died from diarrhea in December 1976. Councilman Hieu (family name unknown), Kien Hoa Provincial Council, executed at Ben Tre in 1981. Sgt. Ho A Ung, member of armed resistance, Nam Ha A Camp, died in 1981. Maj. Ho Ba Dong, Phan Thiet Military Sub-sector, Xuan Loc Camp, died in 1982. Maj. Ho Dac Cua, 23rd Infantry Division, executed after failed escape. Maj. Ho Dac Dat, communications officer, Bu Gia Map Camp, died of malaria. Maj. Ho Duc Sung, 3rd Bureau -- 1st Army Corps, Tan Lap Camp (Vinh Phu), died in 1986. Col. Ho Duc Trung, Member of House of Representatives, Hoang Lien Son Camp, died in 1978. Col. Ho Hong Nam, Dalat Military Academy, died in 1985 upon release due to illnesses contracted in detention. Ho Huu Hia, Cao Dai religious sect, executed in Tay Ninh. Ho Huu Tuong, scholar, Long Khanh Camp, died of illness. 2nd Lt. Ho Khac Trung, died at unknown location. Maj. Ho Minh, military court of Da Nang Camp No. 1, Tien Lanh Camp, died in 1980. Col. Ho Ngoc Can, governor of Chuong Thien Province, executed in October 1975. Ho Quang Vong, Thanh Phong Camp, died during interrogation in 1978. Capt. Ho Thuc Ha, 18th Tank Division, Hoang Lien Son Camp, died in 1978. Maj. Ho Van Doi, Hoa Hao Buddhist Militia Unit 40, Kinh Ong Co Labor Camp (An Giang), died in de tention. Councilman Ho Van Ngan, chairman of Trung An Council, executed in 1975. Lt. Col. Hoach (family name unknown), chief of staff's office, died from illness. Hoang Ba Lac, Thanh Phong Camp, died during interrogation in 1978 or 1979. Capt. Hoang Dinh Ri, Ky Son Camp, died in December 1975. Hoang Kim Qui, businessman, Z30-C Camp, died from diarrhea. 1st Lt. Hoang Loc Bui, Gia Phuc Camp (Phuoc Long), executed in 1979 for expressing ``reactionary'' political opinions. 2nd Lt. Hoang Quang Hua, national police, Binh Dai Camp (Kien Hoa), died from diarrhea. Rev. Hoang Quynh, Catholic priest, Phan Dang Luu Interrogation Camp, died in solitary confinement in 1975. Maj. Hoang Tam, Hoc Mon Camp, died in 1976. Capt. Hoang Van Chinh, Ham Tri Re-education Camp (Phan Thiet), executed on Aug. 25, 1977, after failed escape. Maj. Hoang Van Dang, provincial chief of People's Self-defense Force, Huy Khiem Camp (Binh Thuan), died in November 1988. Sen. Hoang Xuan Tuu, senate, Nam Ha A Camp, died in 1980,secret illness. 2nd Lt. Hong (family name unknown), Yen Bai Cam, died in 1976. Lt. Col. Hong (family name unknown), Vinh Phu Camp, died in detention. Rev. Hong (family name unknown), pastor of Tra Vinh Catholic congregation, Ben Gia Prison (Tra Vinh), died in 1985. Maj. Hong (family name unknown), F5 pilot, Nghe Tinh Camp, died in 1980. Maj. Hop (family name unknown), 2nd Marine Battalion, Nghia Lo Camp, died in 1978. Hu Y Chief, Vinh Xuong Fort, died upon release due to illnesses contracted in detention. 2nd Lt. Hua Khoi, national police headquarters for Da Nang Province, An Diem Camp, died in detention. Lt. Col. Hung (family name unknown), ordnance officer, Muong Thai Camp (So La), died in 1977. 2nd Lt. Hung (family name unknown), chief of staff's office, Gia Rai Re-education Camp, died in solitary confinement. Lt. Col. Hung Van Thanh, marine, Gia Rai Re-education Camp (Xuan Loc), committed suicide. Huy Van, editor of Tien Tuyen Newspaper, Camp K4 (Vinh Phu), died in detention. Huynh Chin, Popular Forces 49th Platoon, Phu Cat Phu Cat Prison, executed with six fellow inmates on May 1, 1975. Huynh Chuong, Nuoc Nhoc Re-education Camp (Nghia Binh), beaten to death in 1979. Col. Huynh Huu Ban, F5 Chief of Staff's office, Cay Khe Re-education Camp, died in 1977. Maj. Huynh Ke Thu, air force, Camp 14/LT1 (Yen Bai), died in 1976. Col. Huynh Ngoc Lang, military police, Ba Sao Re-education Camp, died in 1982. Lt. Col. Huynh Nhu Xuan, Military Cadet Academy, died in North Vietnam. Huynh Thanh Khiet, Cao Dai religious sect, executed in Tay Ninh. 1st Lt. Huynh Thuat, infantry, Nong Truong Thong Nhat Re-education Camp, executed on June 7, 1977. Lt. Col. Huynh Van Kien, Hoang Lien Son Re-education Camp, died in detention. Congressman Huynh Van Lau, House of Representatives, Chau Doc Prison, executed on Aug. 24, 1975. Capt. Huynh Van Luc, Phu Khanh Re-education Camp, shot dead when he couldn't meet labor quota because of injured hand. Huynh Van Quan, Kinh Lang Thu 7 Re-education Camp, shot dead during escape attempt on June 7, 1977. Huynh Van Sang, Cham leader, Xuan Phuoc Re-education Camp, died in 1986. Capt. Huynh Van Tho, national police -- 6th District, Phong Quang Re-education Camp (Lao Cai), died in 1978. Maj. Huynh Van Tho, artillery, Hoc Mon Re-education Camp, died in detention. Capt. Huynh Xuan Con, Trang Lon Prison (Cay Cay), executed after failed escape. Lt. Col. Ke (family name unknown), Hoang Lien Son Re-education Camp, died in detention. Dr. Kha (family name unknown), military doctor at Bien Hoa Mental Clinic, killed by a grenade Aug. 31, 1979. Kha Tu Giao, Long Giao Re-education Camp, died from hunger strike in 1977. Lt. Col. Khoa (family name unknown), Nam Ha C Re-education Camp, died of a brain hemorrhage. Capt. Khoan (family name unknown), Vinh Loi Military Sub-sector, Bac Lieu Temporary Detention Camp, committed suicide in June 1975. Le Van Duyet, armed resistance movement, executed for anti-government activities. Lt. Col. Khong Van Tuyen, communications officer, Phu Son Camp No. 4 (Bac Thai), died in detention. Khuc Thua Van, member of Vietnam's Nationalist Party, Xuan Phuoc Re-education Camp, died in 1984. Lt. Col. Kiet (family name unknown), Company 776, Yen Bai Re-education Camp, died during winter 1977. Kieu Ngoc Thuan, Quang Tin Military Subsector, No. 1 Re-education Camp, died of malaria in May 1975. Venerable Kim Sang, Unified Buddhist Church of Vietnam, Camp T82, killed in detention in 1982. 1st Lt. Lam Huu Hiep, navy, executed on June 17, 1981, after failed escape. Sgt. Lam Michel, national police, executed in 1975 in Binh Duong. Capt. Lam Quang Vinh, platoon leader -- intelligence unit, Son La Re-education Camp, died in 1978. 1st Lt. Lam Si Phuoc, national police -- bureau of My Trinh Village, Gia Trung Re-education Camp (Pleiku), died of malaria in October 1977. Lt. Col. Lam Thanh Gia, national police, executed in 1975 in Binh Duong. Maj. General Lam Thanh Nguyen (a.k.a. Hai Ngoa), Hoa Hao Buddhist, Armed Forces Detention Center in Chau Doc, died in solitary confinement. Lt. Col. Lam Van Trieu, engineer corps, Vinh Phu Re-education Camp, died in detention. 2nd Lt. Lan (unknown family name), Ky Son Re-education Camp, died in 1977. Le Canh Thanh, national police -- Cat Hiep Hamlet, Phu Cat Prison (Binh Dinh), executed in 1975. Maj. Le Canh Trong, engineers corps, Hue Central Prison, died in detention. Lt. Col. Le Chon Tinh, Hoa Hao Buddhist Militia Forces, executed in 1975 in Chau Doc. Le Cong Tam, deputy chairman of An Giang Provincial Assembly, Kinh 7 Ngan Re-education Camp, died in detention. Capt. Le Cong Thinh, military transport, Long Khanh Re-education Camp, executed in June 1977 after failed escape. Maj. Le Danh Chap, chief of staff's office, Xuan Phuoc Re-education Camp, died on July 3, 1984. Lt. Le Dinh Phon, navy, Giao Long Re-education camp, reportedly committed suicide with drug overdose. Le Du, leader -- Popular Forces 26th Platoon, Phu Cat Prison (Binh Dinh), executed in 1975. Capt. Le Duc Thinh, military intelligence officer, Long Giao Re-education Camp, executed on April 14, 1976. Le Duy Trinh, Open Arms Program, Song Be Re-education Camp, died in detention. Capt. Le Duyen Ngau, Hoang Lien Son Re-education Camp, beaten to death after failed escape. Sgt. Le Huu Vinh, special unit -- Binh Dinh National Police Command, Z30-A Re-education Camp, died of dengue fever in June 1982. 2nd Lt. Le Khac Tuong, leader -- anti-aircraft unit, Suoi Mau Re-education Camp (Bien Hoa), died of a stroke in 1975. Col. Le Minh Luan, air force, Cay Khe Re-education Camp (Yen Bai), died in 1977. Maj. Le Ngoc An, mayor -- An Nhon military sub-sector, Vinh Phu Re-education Camp, died of malnutrition in August 1979. Col. Le Ngoc Day, Quang Trung Infantry Training Center, Xuan Loc A Re-education Camp, died of a stroke in 1986. Officer Le Ngoc Thua, Kinh 5 Re-education Camp, died in detention. 2nd Lt. Le Phong Quang, political warfare department, A30 Re-education Camp (Phu Yen), drowned during forced labor in 1980. Lt. Col. Le Phuoc Mai, Civil Engineers Corps., died at unknown location. Le Quang Lac, intelligence officer, Thanh Hoa Re-education Camp, died in 1980. Le Quang Minh, A20 Re-education Camp, died in detention. Le Quang The, social affairs officer -- Quang Tri province, Hoan Cat Re-education Camp, died from an ammunition ....

Besides, Many South VN solders in Viet Cong’s labor camps in Phu Yen after 75 were killed in group and VC let their bodies drowned in rivers, sea, or buried in one hole. Some people found out 240 bodies in a big hole in Phu Yen, most of these people are south VN polices.
One village, many farmers heard machine gun shooting in a forest near one houres, they found out Viet cong used big machine guns to shoot thousands bullets at 200 war prisoners inside a small forest in Phu Yen. They killed 40 prisoners and threw their bodies down a river by shooting one by one at their heads and kicked theses war prisoners out of a bridge of Phu Yen. More and more beating to death on labor camps, putting solders in conec made in iron in the sunshine with 150 F degrees, letting them in place that there only is a key hole to breathe and around there are about 1000 s of insects that can bit them to sickness and death.