Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2009

CNCS: GIET NGUOI KHAC DE MINH KHOI BI GIET

Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo cướp
là cướp !!!
Ban Biên Tập TDNL (01.04.2009 số 72) Tiếng Nói của người dân Việt Nam đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Bài thơ một thời của thi nô Tố Hữu : “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo thắng là thắng!...”, một bài thơ từng góp phần lường gạt và đẩy hàng triệu thanh niên Việt Nam vào chỗ chết để xây nên ngai vàng bạo chúa cho tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện thời, bài thơ ấy nay được nhân dân cải biên rất chí lý thành: “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...”.

1- Quả thế, sau khi “cướp chính quyền” (họ vỗ ngực tự hào thế), đảng CSVN đã lộ nguyên hình một đảng mafia và đào tạo ra cả một bọn cướp đông đảo trên đất Việt Nam. Đây là thành quả chủ yếu và có thể nói là “vĩ đại” nhất trong “sự nghiệp trồng người” của Hồ Chí Minh, “sự nghiệp giáo dục” của “cách mạng VN”. Với nhiều kỹ thuật: đầu độc nhồi sọ, o bế dụ khị, hăm dọa trấn áp, hứa suông hẹn hão, đảng CS đã biến vô số người Việt hiền lương thành một bầy lâu la, chẳng còn biết thế nào là lương tâm và luật pháp (dù là luật pháp CS), một chỉ nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh mà đi tàn hại đất nước và dân lành, góp phần củng cố sự thống trị bất công của đảng, của thiểu số lãnh đạo cao cấp trong đảng. Đám lâu la, bầy tiểu yêu, lũ tay chân này không chỉ là hạng tứ chiếng giang hồ, đâm thuê chém mướn, mặt mày bặm trợn, thuộc thành phần “xã hội đen” (nay được đảng rất trọng dụng trong các cuộc đàn áp) mà còn là những kẻ ít nhiều có học, nhà cửa đàng hoàng, sắc phục nghiêm chỉnh, đi đứng ăn nói chững chạc, có địa vị danh tước trong xã hội… Chúng không chỉ theo lệnh đảng đi đánh thân thể người, cướp đất đai nhà cửa thiên hạ mà còn đánh nhiều thứ khác, cướp nhiều thứ khác của nhân dân. Xin đan cử vài ví dụ rất thời sự.

Trước hết, đám tay chân này đang ngồi trong một nơi lẽ ra rất đáng trọng vọng là Bộ Giáo dục và Đào tạo CSVN. Qua cái gọi là “Chương trình giáo dục mầm non từ 3 tháng đến 6 tuổi” do Bộ này đưa ra hôm 11-02-2009, trong Phần III (Chương trình giáo dục mẫu giáo), mục 4 (Giáo dục phát triển tình cảm-xã hội), cả hai lứa tuổi từ 3 đến 4, 5 đến 6 đều được đúc khuôn uốn nắn theo tôn chỉ “kính yêu Bác Hồ và những người có công với quê hương đất nước” (chủ yếu là các công thần đảng CS) (trang 53). Đi vào chi tiết thì cả độ tuổi 3-6 đều được yêu cầu “nhận ra Bác Hồ, đầu tiên qua tranh ảnh, băng hình, đoạn qua lăng Bác (nhà trường tổ chức đi thăm), rồi qua chỗ Bác ở, nơi Bác làm việc…” Chưa đủ, bên cạnh việc nhận ra, thầy cô còn phải dạy các em thích nghe chuyện, nghe hát, đọc thơ, xem ảnh “Bác Hồ”, đoạn thích và thuộc một số bài hát, bài thơ về “Bác”, rồi thì biết một số bài hát, bài thơ, câu chuyện về “Bác” nữa (trang 68)!?! Đưa ra cho các tâm hồn thơ bé mẫu gương của một con người mà khi còn sống đã phạm tội ác với thân thuộc bạn bè, đã giở đủ mọi thủ đoạn lừa gạt nhân dân, đưa họ đi theo con đường chém giết, cướp giật, khi chết còn nằm ăn vạ 80 triệu người Việt Nam, từ đứa trẻ lọt lòng mẹ đến cụ già gần đất xa trời, làm điêu linh cuộc sống trăm họ, khiến đất nước khốn khổ tang thương, suy đồi đốn mạt như hôm nay, đó là một việc đầu độc hết sức đáng tởm, một sự cướp đoạt lương thức con người không thể chấp nhận.

Thứ đến, đám lâu la này cũng có mặt những nơi mà người ta nghĩ là phải phục vụ công lý và sự thật. Dưới danh xưng “sở tư pháp”, “luật sư đoàn”, “phòng thuế vụ”, “cơ quan công an”, “ban thi hành án”, bằng đủ cách như “xử phạt hành chánh”, “đòi giải trình thuế”, “khám xét hành lý”, “kê biên tài sản”, “mời đi làm việc” đầy thủ đoạn mờ ám, phi lý, vô luật, vừa qua chúng đã đánh hội đồng những con người đang bảo vệ công lý cho giáo dân Thái Hà bị án oan và cho các nhà dân chủ bị tù oan là luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự. Chiếm đoạt máy móc, tước quyền hoạt động, chặn đường đi lại, quấy nhiễu gia đình, mạ lỵ xuyên tạc trên báo đài, nhắn tin hăm dọa chửi bới trên điện thoại, cưỡng bức xúi giục khách hàng thân chủ vu khống, gởi giấy mời đến tòa biện hộ sau phiên xét xử… những việc đánh phá ấy đối với Văn phòng Luật sư pháp quyền có phải được thực hiện bởi các tay du thủ du thực, những kẻ cướp đêm cướp đường, giai tầng cặn bã của xã hội đâu!

Cùng chịu những trò như Luật sư Luật là 8 giáo dân và cả vị cai quản giáo xứ Thái Hà là linh mục Vũ Khởi Phụng. Trên tờ Hà Nội Mới, ở trang nhất, liên tiếp hai ngày 26-27/03, tức trước phiên tòa phúc thẩm, bài viết đầy sát khí "Phải vạch mặt và xử lý nghiêm những kẻ chủ mưu" đã cho ai nấy thấy “trận đánh” nhắm vào Thái Hà của nhà cầm quyền CS đã chính thức chuyển hướng. Tám giáo dân bây giờ được gạt sang một bên và kẻ đang bị đưa vào “tầm ngắm” để thế chỗ không còn ai khác hơn linh mục chánh xứ Vũ Khởi Phụng, với những luận điệu "Thực chất họ [giáo dân] đang là nạn nhân của những kẻ xấu đứng đằng sau, muốn thông qua họ để gây khiếu kiện, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc". Và quả nhiên thông tin từ trong tòa án ra bên ngoài lúc 11g sáng ngày phúc thẩm (27-03-2009) cho thấy phiên xử đã được công tố cũng như quan tòa lái theo hướng : "Nếu các giáo dân chấp nhận cúi đầu nhận tội và khai ai là người cầm đầu thì được tha bổng hết". Trước đó một ngày, các viên chức chính quyền tại Hà Đông đã đi nhắc nhở dân địa phương nên đóng các cửa hàng quán lại, đề phòng “bọn giáo dân” gây bạo loạn, với lời nhắc nhở: “Ngày mai sẽ xử “bọn giáo dân” phá nhà. Bọn này ghê lắm…”, khiến người dân phải kháo láo với nhau: “Chúng nó phá bao nhiêu nhà dân ngoài Hà Nội. Giờ kéo vào đây, công an nhắc nhở chúng tôi không cẩn thận chúng phá cả cửa hàng. Ngày mai học sinh các trường quanh tòa án đều phải nghỉ học cả đấy!” Rồi trong ngày phúc thẩm, đang lúc bên ngoài hàng trăm công an chìm nổi trang bị tận răng, mặt đằng đằng sát khí, thì bên trong tòa án, dưới bộ áo “thẩm phán uy nghiêm”, hội đồng xét xử vẫn ngang nhiên cắt lời, chặn họng các luật sư bào chữa, và cuối cùng, vẫn cứ theo chỉ đạo ở trên mà tuyên phán y án cho các bị can vô tội. Rõ ràng những kẻ núp dưới danh nghĩa bảo vệ công lý và phục vụ sự thật đã hành xử như bọn cướp, vâng lệnh đánh thanh danh, cướp danh dự của nhiều công dân lương thiện. Đấy là chưa kể kế hoạch tước đoạt phương tiện, vu khống thóa mạ các cá nhân và tổ chức đấu tranh cho nhân quyền như Khối Dân chủ 8406, như trang blog Người Buôn Gió, như nhà đối kháng Đỗ Nam Hải (bị cướp máy móc đến lần thứ 8)…

Chuyện đảng viên cán bộ địa phương cướp đất đai tài sản của nhân dân, với sự bao che của trung ương (vốn đã nhận tiền “đút lót, lại quả”) là bộ phim dài nhiều tập. Ta hãy nghe một đoạn trong ký sự “Thị trấn Bô-xít tại Lâm Đồng” của Lý Nam Bình: “Người dân Lộc Thắng thì đi đâu cũng bàn tán xôn xao về mỏ Bô-xít. Họ kể về những gia đình được nhận trên 1 tỷ đồng tiền đền bù giải tỏa để giao mặt bằng, nhưng ra thị trấn hay xuống thị xã mua nhà vẫn không đủ. Có người không chịu đi bị cưỡng chế, sau đó tiền đền bù mất hơn 400 triệu trừ vào chi phí cưỡng chế. Có người tiếc vườn chè, vườn cà phê, quyết ôm cột nhà không đi, bị xe múc vào múc bể đầu chết ngay tại chỗ mà còn bị kết tội là chống người thi hành công vụ…” Hay trong ký sự “Đại loạn tại Trường Yên” của Trần Khải Thanh Thủy: “Đất ở đây có giá 5 triệu/m2. Chính quyền xã đồng ý trả lại cho các gia đình bị thu hồi đất mỗi nhà 10% đất dịch vụ, với giá 2 triệu một m2. Nghĩa là bị cưỡng ép bán ruộng với giá rẻ, vẻn vẹn 220.000 một mét, song lại "được" xã ưu tiên nhượng lại với giá gấp 9-10 lần, với lý do nhà chật, đông anh em trai, thiếu đất ở và đất sản xuất... Bán cả sào đất, được 80 triệu thì mua lại đất xã bán… người nông dân chỉ còn vẻn vẹn 8 triệu, còn mất đi 9/10 số đất đã có. Quả là một dạng ăn cướp tinh vi, cướp trên cơ sở luật pháp của nhà nước XHCN. Lực lượng cưỡng chế cậy lệnh, cậy đông, khinh nhờn quyền dân nên hung hăng như giữa chốn không người, trong lúc chủ tịch xã cầm loa oang oang kích động, ra sức tuyên truyền đường lối và chủ trương "đúng đắn" của đảng và nhà nước: “Đất đai là sở hữu của nhà nước! Khi cần, nhà nước ra lệnh trưng thu, đề nghị bà con thôn ta tự nguyện chấp hành”.

2- Sở dĩ có cảnh “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...” như thế, đó là vì chính CSVN đang là tên đầy tớ chịu lệnh của CS Trung Quốc. Cái đảng Đại Hán này đã và đang ra lệnh cho tay chân, đàn em phải đi, phải đánh, phải cướp cơ đồ nước Việt mà dâng cho họ. Đầu tiên là qua công hàm ô nhục năm 1958, tiếp đến qua 2 hiệp định lãnh thổ và lãnh hải đầy khiếp nhược năm 1999 rồi 2000, đoạn qua việc câm lặng để cho Trung Cộng tống cổ hai công ty dầu khí Mỹ và Anh khỏi thềm lục địa VN năm rồi. Mới đây nhất, nguy hiểm nhất, quân cướp Việt Cộng lại đánh đuổi cư dân khỏi Tây nguyên, đánh bạt tiếng dân khắp cả nước, để cho tướng cướp Trung Cộng đem nhân công và máy móc của mình vào yếu huyệt sinh tử, tiền đồn quan trọng đó của Quốc gia (chưa kể cho Trung Cộng thắng thầu rất nhiều công trình trọng điểm về điện, ximăng, hóa chất). Rồi giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, thậm chí giữa xung đột quốc tế trên biển Đông, bộ Chính trị CSVN vẫn liên tục tiếp các đại diện Bắc triều để nhận lệnh: Uỷ viên Quốc vụ viện Trung Cộng là Đới Bỉnh Quốc được cả ba lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Cộng tiếp trong hai ngày 19 và 20-03-2009. Rồi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng Tham mưu trưởng quân đội Nguyễn Khắc Nghiên, và sau đó là Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, lại tiếp Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Cộng hôm 23-03… Cùng ngày, Đới Bỉnh Quốc và Phạm Gia Khiêm, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao VC, chứng kiến lễ ký giao ước thiết lập đường dây điện thoại nóng giữa lãnh đạo cao cấp hai nước.

Đứng trước nạn cướp bóc Nhân dân và Dân tộc này, có những con người anh dũng đã lên tiếng, nổi bật nhất trong đó là Khối 8406 (sắp kỷ niệm 3 năm ngày thành lập) và Hòa thượng Quảng Độ, người vừa ra lời kêu gọi Đồng bào các giới trong nước bất tuân dân sự, biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây Nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng (30-3-2009). Toàn dân còn đợi gì mà không cùng đứng lên với họ?
Nguy Cơ Mất Nước Đã Đến Rất Gần
NGUYỄN CHÍNH KẾT
Hiện nay, Cộng sản Việt Nam đã lộ ra bộ mặt thật: sẵn sàng bán nước để bảo vệ ngai vàng quyền lực của mình. Các cán bộ cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam đang tìm cách tận dụng thời gian còn tại quyền để làm giàu, để vơ vét tiền bạc trong nước, bất chấp làm cho hàng triệu người đau khổ, tuyệt vọng. Họ hy vọng nhờ đó có được cuộc sống tột bậc vinh hoa phú quí trong tương lai, tương tự các bạo chúa thời xưa (Tần Thuỷ Hoàng, Trụ Vương…) và thời nay (như Sadam Hussein, Kim Chính Nhật). Họ muốn, với bất cứ giá nào, kéo dài thời gian độc quyền thống trị đất nước để có thể vơ vét được ngày nào hay ngày ấy…

Để làm giàu và vơ vét tiền bạc vào túi, họ tìm cách bóc lột người dân. Trong dân chúng, không có giới nào dễ bóc lột cho bằng dân nghèo mà nông dân và công nhân là chủ yếu. Vì dân nghèo là giới ít khả năng tự vệ nhất, dễ ức hiếp nhất. Vì nghèo nên họ không có tiền đi học. Không có tiền đi học thì không có nhiều khả năng suy nghĩ, tính toán. Suốt ngày chỉ lo việc ăn mặc thôi cũng đủ chiếm hết thì giờ, đầu óc và năng lực, không còn khả năng hay đầu óc để nghĩ đến việc chống đối. Nếu bị dồn đến đường cùng nên phải đấu tranh để tồn tại, thì giới này sẽ bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp thẳng tay, bị đưa ra toà với những tội danh bịa đặt: gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, lợi dụng tự do dân chủ… Vì thế những dân nghèo bị cướp, bị bóc lột hiện nay bị dồn vào tình trạng không lối thoát.
Để bảo vệ độc quyền cai trị hầu có thể làm giàu được mãi, họ chủ trương “đội trên đạp dưới”: một mặt họ thần phục một cách nô lệ quan thầy Trung Quốc để nước đàn anh này bảo trợ cho ngai vàng của họ; mặt khác họ ra tay đàn áp tàn bạo tất cả những tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước, cho dù là đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Để quan thầy Trung Quốc bảo trợ cho mình khả năng thống trị đất nước, Bộ Chính trị hay Trung ương đảng CSVN đã nịnh bợ quan thầy một cách hèn hạ, đốn mạt hơn bất kỳ một triều đại nào trong lịch sử. Những cá nhân hay tập thể phản quốc như Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống trong lịch sử cũng chỉ dâng biếu đầu hàng, hay dâng một số vàng bạc châu báu hoặc nhượng một phần rất nhỏ lãnh thổ quốc gia cho Trung Quốc. Họ không cam tâm dâng quá nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải cho ngoại bang như đảng CSVN. Và họ cũng chỉ có những hành động phản quốc ấy khi ngai vàng của họ có nguy cơ bị mất đến nơi, chứ không như đảng CSVN đã hành động phản quốc ngay khi ngai vàng của họ vẫn còn rất vững vàng.
Suốt hơn 60 năm qua, đảng CSVN do Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và những người kế tục lãnh đạo, đã nịnh bợ quan thầy Trung Quốc đến mức sẵn sàng chấp nhận cho kẻ thù dân tộc xâm phạm lãnh thổ lãnh hải của tổ quốc mình, bất chấp sự nguy hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Hành động bán nước cho Trung Quốc đã quá rõ ràng qua những sự kiện:
• Chấp nhận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa + Trường Sa: Năm 1958, sau 4 năm chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Mới đây, khi Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa, chính thức sát nhập hai quần đảo trên vào lãnh thổ Trung Quốc, đảng CSVN không chỉ hoàn toàn im lặng chấp nhận, mà còn đàn áp tàn bạo các nhà đấu tranh dân chủ và các sinh viên biểu tình phản đối việc xâm lăng này của Trung Quốc.
• Nhượng hàng chục ngàn cây số vuông đất cho Trung Quốc (vùng biên giới phía Bắc, trong đó có ải Nam Quan, thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm… ) và hàng trăm ngàn cây số vuông biển cho Trung Quốc (vùng biển vịnh Bắc bộ): Đảng CSVN đã lén lút ký mật ước bán đất bán biển của tổ quốc cho Trung Quốc. Người dân nào tìm cách điều tra, tìm hiểu sự thật về hành động ám muội này của đảng hoặc công bố sự thật này lên đều bị gây khó dễ hoặc bị đưa vào tù (trường hợp Lê Chí Quang, Bùi Minh Quốc… ) Việc cố tình che dấu hành động này chứng tỏ họ rất ý thức đó là một hành động phản quốc, bán nước, hại dân. Nhưng họ vẫn quyết tâm “minh tri cố phạm”.
• Cho người Trung Quốc vào Việt Nam không cần visa khiến họ có thể dễ dàng xâm nhập vào toàn cõi Việt Nam. Điều này khiến cho ngày càng có nhiều người Trung Quốc nhập cư, định cư và làm ăn sinh sống tại Việt Nam. Với vốn đầu tư và tài làm ăn của họ, dần dần họ có thể chi phối nền kinh tế Việt Nam, khiến đời sống của người dân Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Đây có thể là giai đoạn dọn đường cho việc Trung Quốc chiếm cứ Việt Nam sau này. Những người Trung Quốc ở sẵn tại Việt Nam, lúc ấy rất đông, sẽ tiếp tay cho việc chiếm cứ này. Trung Quốc đã thực hiện điều này tại Lào trong thập niên qua để đồng hoá nhân dân Lào.
• Mở những đường hoả xa từ Trung Quốc vào Việt Nam (nối Nam Ninh và Hà Nội): Những đường này chỉ có những đoàn tàu của Trung Quốc mới sử dụng được, vì khoảng cách giữa hai đường sắt song song theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, lớn hơn tiêu chuẩn của Việt Nam. Đây là cách tạo điều kiện dễ dàng cho dân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam, đem hàng hoá nhập lậu vào Việt Nam. Và đây cũng là một cách dọn đường hay chuẩn bị cho Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam: có sẵn phương tiện chuyên chở quân đội và vũ khí để vào tiếp thu Việt Nam.
• Cho Trung Quốc đưa người vào Tây Nguyên lấy cớ “khai thác Bauxite”: Tây Nguyên là một vị thế chiến lược quan trọng cần phải bảo vệ vì ai chiếm được Tây Nguyên thì cũng có thể chiếm được toàn cõi Đông Dương. Đảng CSVN cho Trung Quốc đem hàng chục ngàn người của họ vào Tây Nguyên thì chẳng khác gì một đứa con trong nhà giao chìa khoá cửa nhà cho người hàng xóm mà cả nhà đều biết người hàng xóm này lúc nào cũng muốn xông vào nhà để cướp nhà. Trung Quốc đã từng cố công chiếm Tây Tạng, một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn và ít tài nguyên. Chẳng lẽ Trung Quốc lại không chiếm Việt Nam, một nước lớn hơn và nhiều tài nguyên hơn Tây Tạng rất nhiều, khi mà đảng CSVN, kẻ đang cai trị đất nước này đã tạo nhiều điều kiện rất thuận lợi cho họ xâm chiếm đất nước mình. “Khai thác bauxite tại Tây Nguyên” chỉ là một chiêu bài để che dấu một ý đồ đen tối đằng sau. Vì việc khai thác ấy không thể thực hiện được với điều kiện quá hạn hẹp của Tây Nguyên do không đủ nước và điện để cung cấp cho sản xuất. Ý đồ đen tối ấy chính là chuẩn bị cho Trung Quốc chiếm Tây Nguyên, và dùng Tây Nguyên làm bàn đạp để chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam.
• Rất có thể còn có những mật ước khác đã ký kết nhưng chưa được tiết lộ sợ phản ứng của người dân và quân đội. Cũng như cách đây một năm, chưa ai biết được đảng CSVN đã ngầm ký kết với Trung Quốc việc cho Trung Quốc đem hàng chục ngàn người vào Tây Nguyên với danh nghĩa “khai thác bauxite”. Từ từ rồi những mật ước ấy sẽ được công khai hoá, để rồi khi người dân biết được thì đã quá muộn.
Trước thực trạng Trung Quốc xâm lược, chiếm đất chiếm biển, đảng CSVN không chỉ im tiếng không phản đối, không chống cự, mà còn tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn để Trung Quốc có thể chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam. Đã không ra tay bảo vệ tổ quốc, đảng CSVN còn dùng bạo lực, nhà tù để khủng bố, ngăn chận tất cả những người dân nào muốn biểu lộ lòng yêu nước và nỗi âu lo trước nguy cơ đất nước bị Trung Quốc xâm chiếm, cho dù bằng cách ôn hoà và hợp pháp nhất nhất là biểu tình trong trật tự. Ngay cả biểu tình một mình lặng lẽ trước cửa nhà mình như cô Phạm Thanh Nghiên cũng bị CSVN đưa vào tù.
Dã tâm bán nước của đảng CSVN đã lộ ra quá rõ ràng không còn nghi ngờ được nữa. Nếu không tìm cách ngăn chặn, nguy cơ Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai, tức thành một tỉnh của Trung Quốc, là chuyện trước mắt khó lòng tránh được.
Khi đã mất nước vào tay Trung Quốc thì mọi người Việt Nam trong nước, dù là công an hay bộ đội, là đảng viên Cộng sản hay cán bộ nhà nước, đều lâm vào tình trạng khốn khổ như nhau, không biết đến bao giờ mới thoát ra được. Gương Tây Tạng mất nước suốt 60 năm qua là một bài học không thể bỏ qua.
Trước nguy cơ mất nước trước mắt, mọi người dân trong nước, dù là đảng viên Cộng sản, dù là bộ đội hay công an, chúng ta cần xác định rõ ràng: chúng ta đang có một kẻ thù chung là tập đoàn gồm 15, 16 người của Bộ Chính Trị, là những kẻ đang tâm bán đứng quốc gia cho Trung Quốc. Và cũng phải coi là kẻ thù tất cả những ai kể từ nay sẵn sàng làm tay sai tiếp tay cho tập đoàn phản dân hại nước này để đàn áp những người yêu nước đang quyết tâm bảo vệ tổ quốc.
Trước nguy cơ mất nước trước mắt, mọi đảng viên Cộng sản, mọi công an bộ đội, mọi cán bộ trong guồng máy nhà nước CSVN, cần phải dứt khoát chọn lựa: hoặc đứng về phía nhân dân để cùng bảo vệ tổ quốc, hoặc đứng về phía kẻ thù là những kẻ bán nước. Xin đừng vì quyền lợi riêng, vì miếng cơm manh áo của mình mà phản bội tổ quốc, chống lại nhân dân. “Nước mất thì nhà tan”: một khi đất nước đã vào tay ngoại bang, thì tất cả những thứ mình gom góp được bấy lâu nay và cố giữ cũng sẽ chẳng còn, ngay cả mạng sống của mình cũng chưa chắc tồn tại. Nếu nước do nhân dân phục hồi và làm chủ được, thì những kẻ bán nước, phản bội cũng khó mà ngửa mặt nhìn đời.
Xin mọi người Việt trong và ngoài nước hãy ý thức nguy cơ mất nước đã đến rất gần. Hãy ra tay hành động một cách sáng suốt và can đảm.
Ngày 5/4/2009
Nguyễn Chính Kết
Tháng Tư đen! Ngọn lửa đỏ !!!
Ban Biên Tập TDNL (01.05.2009 số 74) Tiếng Nói của người dân Việt Nam đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
1- Đã 34 năm trôi qua kể từ ngày Cộng sản Quốc tế, qua tên tay sai CSVN, thôn tính được Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ sự viện trợ bằng quân trang quân dụng của Liên Xô và Đông Âu trong đại kế hoạch xích hóa toàn thế giới, nhờ sự hỗ trợ bằng chính trị của những tay phản chiến phương Tây ngây ngô khờ khạo về hiểm họa CS, nhờ sự bỏ rơi đồng minh vì những toan tính trong thế cờ chính trị hoàn vũ của Hoa Kỳ, nhờ sự trấn giữ hậu phương giùm của hơn 300.000 quân Trung Cộng đầy âm mưu xâm lược, nhờ sự nội gián của Mặt trận Giải phóng và Thành phần thứ Ba đầy ảo tưởng và ngu xuẩn, vô số sư đoàn cán binh đói cơm đói của từ miền Bắc, tự rừng núi vượt qua giới tuyến, tràn xuống đồng bằng miền Nam, để thực hiện “sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho một chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người đang âm mưu làm vua của cái nước VN khốn khổ này bằng chiêu bài Độc lập, Tự do mà ở các nước người ta đã có từ nửa thế kỷ trước vì người ta may mắn thay, đã không có đảng CS cầm quyền!” (Tô Hải, Hồi ký của một thằng hèn), để thực hiện cái gọi là “sự nghiệp giải phóng”, mạo xưng là “đoàn quân giải phóng”, huênh hoang đặt thời điểm “sau ngày giải phóng”. Và lập tức nhân dân miền Nam, thậm chí cả nước, hiểu rõ ngay ý nghĩa mỉa mai của động từ cao đẹp này.

Trước hết là “giải phóng” khỏi những tài sản vật chất. Ngoài việc chiếm lấy nhà cửa của những ai đã hoảng sợ bỏ đi, đoàn quân chiến thắng có nơi còn xông vào tư gia, chận đường lộ để đoạt những máy móc lúc ấy được cho là quý hiếm: “đài”, đồng hồ, máy ảnh… Rồi qua chiêu bài “cải tạo tư sản, cải tạo thương nghiệp”, các doanh nghiệp xí nghiệp to nhỏ ở miền Nam đều bị tước đoạt vốn liếng tài sản và chủ nhân của chúng bị đẩy đi “vùng kinh tế mới” (đúng ra là kinh tế chết); qua chiêu bài “cải tạo tư tưởng, cải tạo chính trị”, nhà cửa cơ ngơi của nhiều quân cán chính VNCH bị tống vào các trại lao động khổ sai cũng bị chiếm dụng. Đến khi người dân Việt, thậm chí Việt gốc Hoa, liều chết vượt biển vượt biên, CSVN lại lùng sục, chận bắt, lột sạch hay tổ chức “bán bãi” để thu vét vàng. Dịp những người thuộc chế độ cũ được ra nước ngoài định cư dưới các diện khác nhau cũng là cơ hội cho CS làm đầy bị bạc!

Sau thời điểm phải mở cửa kinh tế kẻo toàn thể đất nước chết chùm với nhau vì kiệt quệ (1985), CSVN lại dùng chính sách “quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế, mở khu chế xuất, mời gọi ngoại quốc đầu tư” để cướp lấy nhà cửa của thị dân, ruộng vườn của nông dân, cơ sở của giáo dân, tiền lương của công nhân… Trong số này không thiếu những cựu chiến binh, những mẹ chiến sĩ. Chưa hết, qua các dịch vụ “môi giới kết hôn với ngoại nhân”, “xuất khẩu lao động ra nước ngoài”, hàng triệu thanh niên nam nữ chẳng những phải đóng những số tiền thế chấp khổng lồ mà còn bị bóc lột sức lao động tàn tệ, biến thành lao nô tình nô bởi những tổ chức, cơ quan của CS từ trong ra tới ngoài nước. Đảng cũng không từ việc “giải phóng” túi tiền của cộng đồng hải ngoại qua mỹ từ “khúc ruột ngàn dặm”, qua lời mời đường mật “về xây dựng quê hương”, qua chính sách mỵ dân “hỗ trợ kiều bào lưu lạc”…

Nguy hiểm hơn hết, đảng đang “giải phóng” đất đai của Tổ tiên khỏi nước Việt để dâng cho lân bang phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, như một sự trả nợ chiến phí cho cuộc xâm lấn miền Nam, như một kiểu cầu cạnh để được đàn anh đảng lớn bảo vệ ngai vàng. Sau khi nhượng ải Nam Quan, thác Bản Giốc và bao cao điểm chiến lược ở biên giới phía Bắc, rồi để mặc quần đảo Hoàng Trường Sa và biển Đông rơi dễ dàng vào tay Trung Cộng, đảng lại đang mở đường cho quân xâm lược này vào giữa lòng đất nước, đến tận yết hầu, yếu huyệt của Tổ quốc là vùng Tây Nguyên, dùng vỏ bọc khai thác bauxite để chiếm lĩnh địa bàn quan trọng về mặt an ninh và chính trị này.

Thứ đến là “giải phóng” khỏi những của cải tinh thần. Sau khi chiếm được cả nước, CSVN đã sửa lại Hiến pháp hai lần (1980 rồi 1992) rồi ban hành cả hàng ngàn hàng vạn văn bản dưới luật để hoàn toàn tước bỏ mọi nhân quyền và dân quyền, đặt mọi lực lượng của xã hội vào tay đảng: từ quốc hội, chính quyền đến tòa án, từ công an tới quân đội, từ báo chí đến tôn giáo (quốc doanh). Đảng “giải phóng” trí tuệ và tâm hồn nhân dân bằng nền giáo dục độc quyền, nhồi sọ, ngu dân, phi nhân bản, phản dân tộc; bằng cả hệ thống thông tin một chiều, lèo lái, dối trá, đầu độc dư luận. Toàn dân đều được ăn bánh vẽ “tự do”, “dân chủ”, đều được dạy dỗ để tin vào “đạo đức của bác Hồ”, “sự ưu việt của xã hội chủ nghĩa”, vào “một tương lai xán lạn dưới sự cai trị của đảng”; đều được nhắc bảo “cứ chăm chỉ làm ăn, chớ động đến chính trị, tránh nói xấu nhà nước, đừng theo quan niệm nhân quyền Tây phương, hãy để đảng lo mọi vấn đề của quốc gia dân tộc”….

Những ai từng thuộc chế độ miền Nam, đã nếm qua phần nào tự do dân chủ, thì được đảng đem vào “trại cải tạo” để “giáo dục thành con người mới XHCN”, khiến bao ý chí sống hùng bị kiệt quệ, bao tài năng xây dựng bị thui chột. Đến khi họ ra khỏi tù thì đảng tìm cách tống khứ khỏi nước để trừ hậu hoạn. Những ai mon men đòi quyền lợi, công bằng như nông dân bị lấy đất, công nhân bị xén lương, tôn giáo bị cướp cơ sở thì được đảng đi từ hứa hẹn tháng năm dài tới hăm dọa đủ cách kiểu, có lúc còn chơi trò mỵ dân “hãy hy sinh vì công ích, quốc lợi”. Những ai quyết tâm đòi mọi quyền tự do, dân chủ cho đồng bào, can đảm vạch trần những sai lầm và tội ác của chế độ, thành tâm góp ý xây dựng quê hương đất nước thì bị đảng trấn áp bằng sách nhiễu, hăm dọa, gây khốn cho gia đình, tiếp đến là quản chế, giam cầm và nếu cần thì sát hại.

Từ lâu, để “giải phóng” tinh thần dân tộc khỏi tính Việt để theo tính Tàu, như ý đồ của Trung cộng, Việt cộng đã cho văn hóa Tàu tràn ngập đất nước, đặc biệt trên các phương tiện truyền thông. Quần chúng nhân dân, nhất là giới trẻ, nay biết lịch sử và văn minh của Tàu hơn là của Việt, khiến thi sĩ Bùi Chí Vinh mới đây phải than: “Chào một ngày giống hệt mọi ngày. Sóng truyền hình phủ toàn phim TQ… Hết “Triều đại Mãn Thanh” đến “Đại Tống truyền kỳ”… Đọc báo thấy cha ông mất hút. Thấy thiên hạ quỳ mọp dưới tượng đài Binh pháp Mặc Công, Ngọa hổ Tàng long, Họa Bì, Xích Bích… Con nít thuộc lòng Hoắc Nguyên Giáp, Hoàng Phi Hồng… hơn thuộc sử Tiên Rồng. Chào một ngày đất nước tự lưu vong. Cội rễ văn hiến 4000 năm trốc gốc. Tuổi teen gối đầu giường Lý An, Ngô Vũ Sâm, Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca lạ hoắc. Panô giăng khắp nơi hình ảnh Chương Tử Di, Thành Long, Củng Lợi…”. Đỉnh cao của ý đồ Hán hóa tinh thần này là việc CSVN cho thành lập Học viện Khổng Tử (qua Công văn số 1992/VPCP-QHQT ngày 03-04-2009). Việc này khiến luật sư Đỗ Thái Nhiên đã lên tiếng báo động (qua bài “34 năm sau “giải phóng””): “Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết học… Nó bao gồm những bài học rời rạc mà khi đi vào thực tiễn đời sống dân TQ, người ta nhìn ra ba trọng điểm: - Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao, vợ con chỉ là những kẻ phải tuyệt đối tuân lệnh. - Trong xã hội quốc gia: Vua là tối thượng, nắm quyền sinh sát toàn dân. - Trong bang giao quốc tế: TQ là nước vua, những nước chung quanh chỉ là tôi thuộc, TQ có toàn quyền tùy nghi bành trướng. Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của TQ trên căn bản tư tưởng rằng: TQ là nước vua, VN là nước tôi! Không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho TQ trong nỗ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” Tính Việt và Tình Việt ra khỏi con người VN, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường, chấp nhận thân phận hèn mọn trước TQ vĩ đại”.

Quả thật, đất nước đã lâm vào vận đen, lịch sử đen từ Tháng Tư đen năm ấy. Và xem ra do lòng dạ, ý thức vô gia đình, vô tổ quốc đầy tối đen của Việt cộng, một Tháng Tư đen mới sẽ thành hình, mà lần này thì mất nước vào tay Trung cộng. Tương lai dân Việt sẽ còn đen tối hơn nữa !!!.

2- Bên cạnh màu đen u tối đó, người ta lại xuất hiện thêm một màu cũng đáng sợ không kém là màu đỏ. Màu của bùn đỏ, bụi đỏ vô cùng độc hại phát xuất từ việc khai thác bauxite. Theo các nhà khoa học, bùn đỏ này (một quả bom 20 triệu tấn treo trên nóc nhà nước Việt) sẽ hủy hoại bề mặt của đất và các mạch nước ngầm, gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường, khiến không có loài sinh vật nào sống được. Trung Quốc chẳng có thể dùng quả bom vĩ đại đó để đe dọa chúng ta sau khi chúng đã khai thác và chiếm lĩnh vùng Tây Nguyên sao? Còn bụi đỏ (vốn không chỉ nằm trong nơi khai thác mà sẽ chiếm lĩnh toàn vùng kể cả khu dân cư và khu nông nghiệp) sẽ bám trên lá cây trồng trọt, khiến cây không thể phát triển; nó cũng đi qua khí quản vào phổi và sau một thời gian dài thì người bị nhiễm sẽ đi đến ung thư phổi. Đây là những tai họa khác đang rình chờ người dân Việt Nam chúng ta tất cả. Tai họa đỏ đó hiển nhiên phát xuất từ quân xâm lược đỏ và tay sai đỏ của chúng.

Tuy vậy, cũng không thể không nói đến một màu đỏ hy vọng, đó là ngọn lửa đỏ mà toàn dân đã và đang nhen lên từ cả thập niên nay, khi khởi đầu thế kỷ 21. Ngọn lửa đó do các nhà tranh đấu dân chủ, các đoàn lũ dân oan, các cộng đồng tôn giáo, các tập thể công nhân đã đốt lên từ trái tim đầy phẫn uất trước bất công, đầy tha thiết với lẽ phải, đầy thổn thức trước vận mệnh suy đồi của Dân tộc. Ngọn lửa đó đã nhen lên trước văn phòng 2 Quốc hội, tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng, bên cạnh tòa Khâm sứ, trong Linh địa Thái Hà, từ Thanh Minh Thiền viện, nơi cây cầu vượt ở Hải Phòng, giữa phiên tòa bịt miệng tại Huế, tận đáy phòng giam các chiến sĩ dân chủ. Ngọn lửa đó đang bùng cháy trên trang mạng Bauxite Việt Nam và sẽ bốc mạnh khắp cả nước trong tháng 5 Bất tuân dân sự-biểu tình tại gia này, để như nhà thơ Hà Sĩ Phu nói, “Hồn dân tộc Triệu Trưng về đốt lửa, thiêu lũ hèn Chiêu Thống cháy ra ma”.
Những bài học đích đáng
tại Genève !!!
Ban Biên Tập TDNL (15.05.2009 số 75) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Khi quyết định thành lập Hội đồng Nhân quyền vào năm 2006, Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc cũng đồng thời thiết lập một cơ chế mang tên Kiểm điểm Định kỳ Phổ cập (Universal Periodic Review, gọi tắt là UPR), để duyệt xét việc thực hiện nhân quyền của toàn bộ các nước thành viên 4 năm một lần. Cuộc kiểm điểm tiên khởi đã bắt đầu từ tháng 04-2008 và theo lịch trình VN sẽ trình bày báo cáo của mình vào ngày 8-5-2009 tại trụ sở Hội đồng Nhân quyền ở Genève, Thụy Sĩ.
1- Ngay trước ngày Việt Nam phải trình bày tình hình nhân quyền trong nước với Hội đồng này thì nhiều “tin dữ” ập tới dồn dập. Chẳng hạn hôm 30-4, Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo (CPJ) đã công bố danh sách 10 quốc gia mà tổ chức này cho là “khó khăn nhất đối với các blogger”, trong đó có Việt Nam. Hồi tháng 3, Tổ chức Phóng viên không Biên giới (RSF) cũng đã đưa ra danh sách 12 quốc gia “thù nghịch với internet”, VN có trong đó. Đến ngày 01-05, Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ tái đề nghị đưa VN trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) về vi phạm tự do tôn giáo. Đến ngày 04-05, trong bản phúc trình tựa đề "Vẫn chưa phải là thiên đường cho công nhân", Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) đã nêu ra những vụ đàn áp của nhà cầm quyền VN đối với các công đoàn độc lập cũng các chiến sĩ hoạt động cho quyền lợi của công nhân.
Những lời cảnh báo đó của thế giới đã vạch trần bộ mặt gian trá của “Báo cáo Quốc gia Kiểm điểm Định kỳ việc Thực hiện Quyền Con người ở VN” (một bản văn dài 22 trang, phân thành 89 số, được Bộ Ngoại giao soạn thảo với sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước và công bố hôm 23 tháng 3). Nó nhanh chóng gặp phải sự chỉ trích của đồng bào khắp nơi lẫn thân hữu quốc tế vì chứa vô số điều xuyên tạc sự thật và phản ánh những cách suy nghĩ lẫn hành động lỗi thời, không phù hợp với những nguyên tắc nhân quyền phổ quát của thế giới văn minh dân chủ hiện đại.
Trước hết, tất cả những gì gọi là các Quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa (các số 17-38) -trình bày qua hàng loạt con số thống kê mà không ai có thể truy nguyên kiểm chứng và qua vô số bộ luật mà không ai có thể xác minh hiện thực- đều bị thể chế độc đảng toàn trị biến thành bánh vẽ hoàn toàn. Bánh vẽ này lại càng to hơn khi nhét vào miệng các “nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, dân tộc thiểu số, người khuyết tật”, x. các số 39-56). Ai chẳng biết đó là những thành phần tiếp tục bị thiệt thòi nhất, tổn thương nhất do lối quản lý xã hội kiểu tham lam, ngu dốt và coi khinh con người của CS. Tiếp đến, báo cáo của Hà Nội -với giọng lưỡi gỗ như mọi lần- kết nối nhân quyền với việc giành độc lập cho đất nước, còn gọi đó là “những thành tựu dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất mà nhân dân VN đã giành được” (số 60). Thật ra, đây là hai vấn đề riêng biệt, và không nhất thiết là nhân quyền của người dân sẽ được bảo vệ sau khi đất nước giành được độc lập. Lối lập luận thứ hai thường thấy là Hà Nội tiếp tục cho rằng “việc thực hiện quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước…. với các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực” (x. số 61). Kiểu “nhân quyền bản địa” này chỉ là lối ngụy biện nhằm bênh vực cho thói hành xử độc tài đảng trị và triệt tiêu tự do dân chủ lâu nay tại VN.
Tiếp đến, như Giáo sư Võ Văn Ái nhận xét: “Báo cáo này cho một danh sách rất nhiều về vấn đề luật pháp và xem như rằng khi có càng nhiều luật chừng nào thì việc tôn trọng nhân quyền càng nhiều chừng đó. Tuy nhiên Hà Nội không hề cho người đọc thấy cụ thể những luật pháp đó đã được áp dụng như thế nào trong việc bảo vệ quyền của công dân tại VN; và xem như nhà nước VN tôn trọng nhân quyền vì đã có những cuộc đối thoại với Hoa Kỳ, với Liên hiệp châu Âu”. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Giám đốc Viện Quốc tế cho VN ở Virginia, Hoa Kỳ, thì cho rằng “Bản kiểm điểm này lẫn lộn giữa thành tích phát triển với thành tích nhân quyền và dân quyền. Hà Nội kể ra thành tích về giáo dục, y tế, phụ nữ v.v… nhưng đó là những thành tích về phát triển. Thành tích phát triển không nhất thiết bảo đảm sự tôn trọng nhân quyền và dân quyền”. Ngoài ra, “Báo cáo của VN cho biết họ muốn thay đổi rất nhiều luật pháp nhưng thay đổi luật pháp không có nghĩa luật pháp được nhà cầm quyền tôn trọng. Tức là nhà cầm quyền có thể sử dụng luật pháp để vi phạm nhân quyền… dùng luật pháp để cai trị bạo ngược. Cái đó gọi là pháp quyền (rule by law). Một chế độ pháp trị (rule of law) thì hoàn toàn khác! … Luật pháp phải cai trị cả nhà cầm quyền thì lúc đó mới thật sự tôn trọng luật pháp và mới có căn bản để nhân quyền được tôn trọng. Ở VN chưa có pháp trị (rule of law), mà chỉ có pháp quyền (rule by law) thôi. Thực chất vấn đề VN hiện nay là nhà cầm quyền không thật sự do nhân dân cử ra và phục vụ cho nhân dân mà là do Đảng Cộng Sản cử ra và phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cầm quyền”. (x. Ðài Tiếng nói Hoa Kỳ, 04-05-2009)
2- Đến ngày 08-05-2009, phái đoàn Hà Nội gồm 29 người đã đến phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ tại Genève về tình trạng nhân quyền VN cùng sự tuân thủ các Công ước quốc tế LHQ về nhân quyền mà VN đã ký kết. Dàn chào họ trước hết tại quảng trường trước tòa nhà là gần 2000 đồng bào VN từ khắp nơi trên thế giới (trong đó có 400 đồng bào Khmer Krom) với cả rừng cờ vàng biểu ngữ, với nhiều nghi thức cầu nguyện tưởng niệm, với những khẩu hiệu tung hô đả đảo, những ca khúc cổ xúy nhân quyền. Tiếp đến, báo chí quốc tế cũng dàn chào CSVN với những hàng tít lớn đầy màu sắc cáo trạng: Anh tấn xã Reuters viết “VN bị tố cáo đàn áp nhân quyền trước khi đến phúc trình ở LHQ”, Pháp tấn xã AFP viết “Nhân quyền : VN bị tố cáo trước LHQ dù được các nước liên minh hậu thuẫn”, Nhật báo Phố Wall của Hoa Kỳ (2 triệu số mỗi ngày) viết bài xã luận “Những sai lầm về Nhân quyền của Hà Nội”. Trước đó không lâu là bản Phúc trình “Nhân quyền tại CHXHCNVN” do Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người VN đệ nạp chung với Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền từ tháng 11-2008 theo thủ tục. Phúc trình này đã được Hội đồng Nhân quyền đưa lên Trang nhà LHQ và làm tài liệu cơ bản cho cuộc chất vấn về những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của VN. Đồng thời còn có những Phúc trình tố cáo Hà Nội của 12 tổ chức Phi chính phủ quốc tế lớn như Ân xá Quốc tế, Theo dõi Nhân quyền, Liên đới Toàn cầu Kitô hữu v.v… nhất là Phúc trình của Cao ủy Nhân quyền LHQ thu thập các tài liệu tố cáo VNCS. Đặc biệt dàn chào phái đoàn Hà Nội trong chính hội trường là 75 quốc gia ghi danh phát biểu mà đa phần thuộc thế giới dân chủ văn minh.
Thoạt tiên, các quốc gia gọi là “Trục Cực Quyền” (Axis of Sovereignty), gồm khoảng 19 nước độc tài (mà VN đã xin xỏ đăng ký sớm), ra sức bao che, hỗ trợ cho Hà Nội. Nhóm “ngưu tầm ngưu mã tầm mã” này đã lên tiếng khen tặng VN qua phát biểu của Miến Điện, Ai Cập, Nga, Lào, Cuba, Sudan, Syria, Lybia. Một số nước khác như Ấn Độ, Sri Lanka, Algérie thì khen quan điểm nhân quyền của VN thể hiện qua cuộc tranh đấu giành độc lập dân tộc, tức quan điểm phản động về nhân quyền không có con người.
Trái lại các quốc gia dân chủ thì quan ngại về vấn đề thiếu vắng nhân quyền và tự do tại VN, nên đã chất vấn hoặc khuyến cáo trên các lĩnh vực sau. Trên lĩnh vực tự do tôn giáo, có phái đoàn Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Ba Lan, Hungary, Liban, Anh Quốc v.v… Ý và Tân Tây Lan đề xuất Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm Tự do tôn giáo phải đi VN điều tra sự việc. Cộng hòa Liên bang Đức nêu cao vai trò trọng yếu của các tôn giáo tại VN. Hoa Kỳ yêu cầu đẩy nhanh tiến trình đăng ký của các Giáo hội, yêu cầu phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho PGVNTN cũng như cho các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài. Trên lĩnh vực tự do báo chí thì có sự quan tâm của Na Uy, Thụy Sĩ, Phần Lan, Thụy Điển, Canada, Hòa Lan, Úc Đại Lợi, Anh Quốc, Đức, Hoa Kỳ v.v… Các khuyến cáo đưa ra là : yêu cầu luật báo chí VN phải được xét lại cho tương hợp với Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của LHQ, yêu cầu công nhận tự do ngôn luận và bãi bỏ những hạn chế tự do báo chí. Phần Lan đề nghị gửi Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm Tự do ngôn luận đến VN điều tra. Trên lĩnh vực tự do chính trị, các quốc gia quan ngại lo âu về những điều khoản “an ninh quốc gia” trong bộ Luật Hình sự. Phái đoàn Canada tuyên bố : “Nhiều khi luật pháp tại VN dùng để kết tội những ai biểu tỏ ôn hòa các quan điểm chính trị, đồng thời hạn chế tự do lập hội.” Phái đoàn Hoa Kỳ yêu cầu VN hủy bỏ các điều khoản mơ hồ về “an ninh quốc gia” như điều 88 về “tội tuyên truyền chống Nhà nước”, điều 258 về “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước”. Hoa Kỳ còn nêu đích danh và đòi hỏi trả tự do cho các tù nhân lương tâm như Lm Nguyễn Văn Lý, hai Ls Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân. Phái đoàn Ba Lan khuyến cáo VN hủy bỏ Pháp lệnh 44 về quản chế hành chính cho phép giam giữ 2 năm tại các trại tạm giam, quản thúc tại gia, hay đưa vào nhà thương điên mà không thông qua sự xét xử của tòa án.
Nói tóm lại, trong lần xuất hiện đầu tiên trước Diễn đàn Nhân quyền vĩ đại này, CSVN quả đã học được nhiều bài học trong cay đắng và tủi nhục. Cay đắng và tủi nhục vì đã bị hầu như cả thế giới vạch trần những dối trá trong thông tin, những ngụy biện trong lý luận, những lỗi thời trong quan niệm và những ngu xuẩn trong mưu đồ lường gạt quốc dân và thế giới. Và phải nói sự ngu xuẩn lớn nhất chính là CS quên rằng không tôn trọng nhân quyền sẽ mất luôn chủ quyền quốc gia dân tộc. Thực tế cho thấy: do quyết tâm duy trì chế độ độc tài đảng trị, tiêu diệt nhân quyền, CSVN không có dân để dựa vào không thể dựa vào dân, nên chỉ biết dựa vào các thế lực quốc tế để tồn tại. Trước đây, nó đã ngoan ngoãn nằm trong hệ thống cộng sản của đàn anh Liên xô, nay thì bị Đế quốc Đại Hán khống chế triệt để. Bài học này, liệu CSVN có chịu thuộc không?




Đảng CSVN sợ hai từ ''Nhân Quyền''
Trong từ điển của chế độ độc tài CSVN không có từ “Nhân Quyền”. Tuy nhiên, từ khi buộc phải mở cửa ra với thế giới văn minh để kéo dài sự sống còn của mình thì ĐCSVN luôn phải đối mặt với hai từ “Nhân Quyền”. Nhưng, mỗi khi nhắc đến từ “Nhân Quyền” thì chế độ CSVN lại giẫy nảy lên như “đỉa phải vôi”, như đi vào chỗ chết, đi vào con đường tự sát. Vậy tại sao ĐCSVN lại sợ hai từ “Nhân Quyền” như vậy?

Theo một cái nhìn chung thì Nhân quyền được hiểu một cách ngắn gọn đó là quyền được làm người. Đã làm người thì họ có quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc. Trong tuyên ngôn độc lập của Hoa kỳ có viết: "Chúng tôi coi những chân lý sau đây là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có Quyền được sống, Quyền tự do và Quyền mưu cầu hạnh phúc…".

Những quyền này được cụ thể hóa trong công ước quốc tế về nhân quyền mà CSVN đã ký kết thực thi, gồm những quyền sau:

Các quyền thuộc lĩnh vực dân sự và chính trị gồm có:

1) Quyền được sống và không bị tước đoạt sinh mạng một cách độc đoán.
2) Quyền có an ninh cá nhân, không bị bắt giữ vô cớ hay bị bỏ tù mà không xét xử công minh.
3) Quyền không bị đối xử độc ác và không bị tra tấn kể cả khi bị bỏ tù.
4) Quyền bình đẳng trước pháp luật và không bị áp dụng phép hồi tố bất lợi.
5) Quyền tự do cư trú và đi lại.
6) Quyền sở hữu tài sản.
7) Quyền bất khả xâm phạm đối với đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín.
8) Quyền được bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm.
9) Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
10) Quyền tự do lập hội và hội họp.
11) Quyền được khiếu nại, tố cáo bất cứ cá nhân, tổ chức nào.
12) Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
13) Quyền tự do biểu tình.
14) Quyền được tham gia quản lý xã hội (bầu cử, ứng cử...).

Các quyền thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa gồm có:

1) Quyền có việc làm và được hưởng thụ thỏa đáng.
2) Quyền được chăm sóc về y tế.
3) Quyền được hưởng nền giáo dục, trước hết là giáo dục tiểu học miễn phí.
4) Quyền được có nơi cư trú.
5) Quyền được sống đủ cho bản thân và gia đình.
6) Quyền được sống trong môi trường không ô nhiễm, độc hại

v.v... (xem http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1228)

Quyền của con người đã được Tạo hóa ban cho, giống như Tạo hóa ban cho mỗi người có chân, có tay, có đầu, có quả tim, và khối óc v.v. Như vậy, đây là quyền phổ quát, cho dù bạn sống ở đâu, ở thời đại nào, thể chế nào, thì minh nhiên bạn vẫn có các quyền đó. Tuyên Ngôn Vienna và chương trình hành động tháng 6-1993 cũng đã khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau. Cộng đồng quốc tế phải xử lý các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng và bình đẳng và được coi trọng như nhau”.

Thế nhưng, ĐCSVN đã dùng toàn bộ bạo lực, thủ đoạn để cướp đi quyền làm người của người dân Việt Nam. ĐCSVN đã rất xảo quyệt diễn giải nhân quyền theo cách của họ và quy kết vào quyền công dân. Điều 50, Hiến pháp Việt Nam 1992 ghi "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật". Mà Hiến pháp và Luật lại do chính ĐCSVN làm ra để phục vụ cho sự thống trị và hành vi cướp bóc của đảng. Hơn nữa, Hiến pháp và Luật được lập ra cũng chỉ để nói với thế giới rằng ĐCSVN cũng có Hiến pháp và Luật lệ như các nước khác. Thực tế thì ĐCSVN là những người ngồi xổm trên luật pháp do chính chúng đặt ra và cai trị nhân dân bằng các nghị định, nghị quyết, và thông tư v.v., giống như một tổ chức Mafia vậy. Những ai phụng sự và trung thành với ĐCSVN thì được coi là nhân dân, còn những ai mới chỉ có ý kiến trái với Đảng và Nhà nước, thì tức khắc được quy kết chụp mũ là thành phần phản động.

Sau 64 năm (miền Bắc VN) và 34 năm (miền Nam VN) sống trong sự sợ hãi, bị tù đày trong nhà tù CS và bị sỏ mũi bởi các thủ đoạn và bộ máy tuyên truyền một chiều của ĐCSVN, nhiều người dân Việt Nam đã đánh mất ý thức hoặc mù mờ về nhân quyền của chính mình. Người dân sống dưới chế độ CSVN chỉ có “thú” quyền chứ không có nhân quyền, và có khi phải sống trong điều kiện không được bằng con thú. Con trâu con ngựa khi bị đói, bị rét, bị chủ đánh chúng còn được kêu rên. Nhưng những người dân sống dưới chế độ CSVN thì không được như vậy; người ta chẳng những không được kêu rên, mà còn phải nói ngược lại là đàng khác: sống trong một xã hội bị thống trị bởi một tập đoàn tham nhũng, cướp bóc và man trá mà vẫn phải nói là “CHXHCN”; bị phụ thuộc mà vẫn phải nói là “độc lập”; những quyền cơ bản nhất của con người bị tước đoạt mà vẫn phải nói là “tự do”; bị lầm than, đàn áp, bất hạnh, đói khổ mà vẫn phải nói là “hạnh phúc”; sống trong địa ngục trần gian xã hội chủ nghĩa mà vẫn phải nói là “thiên đường XHCN”; biết ĐCSVN là mối nhục và sắp đến ngày tận số mà vẫn phải nói “ĐCSVN quang vinh muôn năm” v.v.

Khi quyền được nói của người dân bị tước đoạt và với hơn “700 cơ quan báo chí in, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất, 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản” (theo báo cáo Nhân quyền của VN tại Hội đồng LHQ tại Geneva, Thụy Sỹ, 08/05/2009), thì ĐCSVN muốn nói gì thì nói, muốn ngậm máu phun ai thì phun. Đảng bảo rằng đài báo do Đảng kiểm soát là cơ quan ngôn luận của nhân dân, nhưng ai cũng biết đấy là nơi tập hợp những kẻ bồi bút của Đảng mà chẳng ai dám nói ngược! Đảng bảo dân yêu Đảng, thực tế ai cũng căm thù Đảng, nhưng không ai dám nói ra điều đó! Đảng bảo Đảng là “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng ai cũng biết đỉnh cao trí tuệ ấy được tập hợp từ những “hũ đậu”, những kẻ du đảng du đãng, những kẻ bồi bếp, đồ tể v.v. và từ những học thuyết quái thai dị dạng chắp vá mà ra…, thế nhưng không ai dám nói ra điều đó! Đảng bảo Đảng là kim chỉ nam đang dẫn người dân đến “bến bờ hy vọng”, nhưng ai cũng biết kim chỉ nam này đã và đang chỉ cho người dân con đường đi xuống địa ngục, thế mà cũng không ai dám phản ứng! Đảng bảo ĐCSTQ là bạn, là đồng chí lớn, còn người dân ai cũng biết Trung Cộng là giặc truyền kiếp và là kẻ đang cướp đất, cướp biển, cướp đảo của ta, nhưng không ai được phép nói như vậy, nếu cố tình nói thì bị đàn áp và bỏ tù ngay lập tức (các sinh viên biểu tình trước nạn giặc Tàu cướp biển, cướp đảo đã bị công an CSVN đàn áp (http://hoangsa.org/forum/archive/index.php/t-2882.html) , Nhà báo tự do Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải bị cầm tù (http://clbnbtd.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=448) , Báo Du Lịch mới chỉ đi ra sát mép “lề phải” khi đề cập đến chủ quyền Hoàng sa và Trường sa của VN đã bị đình bản ngay lập tức (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/04/090415_baodulich.shtml) …) v.v.

Cộng sản rất tự mãn về những thành tích vừa nêu. Tuy nhiên, khi thành trì cộng sản ở Liên xô và Đông âu bị sụp đổ, học thuyết cộng sản bị bỏ vào sọt rác lịch sử tại chính cái nơi nó được sinh ra, thì ĐCSVN lại cuống cuồng lo cho ngày tận số của mình. Để kéo dài sự tồn vong, dù chỉ là một sự thoi thóp, không còn sự lựa chọn nào khác, ĐCSVN đành phải mở cửa ra với thế giới văn minh bên ngoài.

Bắt tay với thế giới văn minh, thì phải theo luật chơi văn minh, không thể đưa cách chơi mọi rợ của mình ra mà chơi được, ĐCSVN buộc phải thay đổi cho phù hợp với tình thế mới. ĐCSVN buộc phải dần dần nới lỏng cho người dân. Nhưng lại kể công, bịp bợm nhân dân rằng, ĐCSVN đã tài tình sáng suốt đổi mới, nên nhân dân mới có được như ngày hôm nay, bắt nhân dân một lần nữa chịu ơn mình. Dưới áp lực của quốc tế, ĐCSVN buộc phải nới lỏng hoặc trả lại một số quyền cho người dân, thì ĐCSVN lại nói rằng họ cho hoặc ban ơn, người dân phải chịu ơn Đảng và Nhà nước. Trước cộng đồng quốc tế thì ĐCSVN có thái độ như là một kẻ ăn mày, một kẻ tội đồ cần sự bố thí và khoan dung của cộng đồng quốc tế; còn đối với người dân của mình thì ĐCSVN lại tỏ thái độ trịch thượng như là một kẻ ban ơn. Gần đây nhất, trước Hội đồng nhân quyền LHQ ngày 08/05/2009, chính quyền Việt Nam đã phải cúc cung hứa hẹn cải thiện, và sửa đổi này nọ giống như một đứa con nít phạm tội bị người lớn bắt quả tang.

Từ trước đến nay, ĐCSVN đã luôn tuyên truyền và nhồi sọ bắt người dân phải tin rằng ĐCSVN là đảng của dân, vì dân và do dân... Cái mặt nạ hằng ngày được bôi vôi trát phấn như nấm mồ được quét vôi này, khi được đào bới ra nó sẽ kinh khủng thối tha vô cùng. Lớp vỏ nhân nghĩa được đánh bóng từ khi ĐCSVN hình thành đến nay, khi nó được bóc ra, nó sẽ hiện nguyên hình tội ác, cũng như bản chất cướp bóc, bịt bợm, thối tha, đê hèn và sự phản bội nhân dân cũng như tổ quốc của chúng. Đây cũng là lý do tại sao ĐCSVN sợ sự thật. Sự thật không những phơi bày tội ác của ĐCSVN mà còn giải thoát con người, giải thoát người dân khỏi ách cộng sản.

Để kéo dài sự thoi thóp của mình, ĐCSVN luôn tìm cách bưng bít thông tin, kiểm soát báo chí, blogs và internet, thủ tiêu, khử trừ và bịt mồm những ai manh nha đòi quyền làm người, đòi chân lý. Những người mà trước mắt chúng không thể bỏ tù hay thủ tiêu được thì chúng huy động hệ thống báo chí đánh hội đồng, dùng cả du đảng du đãng mà ĐCSVN gọi là “quần chúng tự phát” để uy hiếp, và tìm cách quy kết cho đủ mọi tội kể cả tội phản bội tổ quốc chống lại nhân dân. Điển hình gần đây nhất là Đức TGM Ngô Quang Kiệt. Khi ngài công khai “đòi” chứ không “xin” quyền của con người: “cái tôn giáo là cái quyền tự nhiên con người được hưởng. Và nhà nước vì dân cho dân phải có trách nhiệm tạo cái điều đó cho người dân chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ “xin cho” , thì CSVN đã dùng toàn bộ thủ đoạn để quy kết tội ngài, thậm chí dùng cả cách bì ổi nhất đó là cắt xén lời nói của ngài để vu cáo.

Tuy nhiên, các thủ đoạn và bạo lực xưa vốn đã được ĐCSVN dùng rất hiệu quả, thì nay không còn tác dụng nữa. “Tiếp theo sau đức Tổng Kiệt không chịu đi xin ơn, nhưng nhất quyết đi đòi quyền, đến lượt đức cha Tân không muốn câm, nay đức cha Khảm không muốn mù, đức cha Bản không muốn què, cương quyết “bước đi trong Thần Khí” có vẻ như từ lòng Giáo Hội Việt Nam đang bừng lên một khí thế mới, dưới sự thúc đẩy của Thần Khí: “Dậy mà đi!” (LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm)

Phong trào cầu nguyện đòi quyền làm người ngày càng lan rộng và lớn mạnh. Càng ngày càng nhiều người dân ý thức được quyền làm người của mình. Chắc chắn là có một ngày gần đây, sẽ có một cuộc lên đường lớn của tất cả những người dân đã bị ĐCSVN tước đoạt quyền làm người bấy lâu nay. Và nếu điều ấy xảy ra thật thì đây cũng là ngày tận số của ĐCSVN. ĐCSVN đang rất vô cùng hoảng sợ trước dự đoán này.
Trần Công Luận

Bất Nhân, Gian Manh, Xảo Trá

Không tôi là kẻ phàm phu,
Cái tôi lấn át làm ngu muội mình.

Chế độ xã hội ở Việt Nam ngày nay càng tồn tại lâu, và người ta càng sống lâu, người ta càng tiếp tục chứng kiến CSVN làm nhiều hành động thể hiện tính ngu muội, cố chấp, vá víu, “đánh bùn sang ao”, phản lại tiến bộ chính đáng của con người và xã hội:

Trong khi khối Liên Xô và Đông Âu đã biết mở mắt khước từ chủ nghĩa Cộng Sản, sau 70 năm khống chế, thì Đảng Cộng sản Việt Nam nằm trong vòng ảnh hưởng Trung quốc, vẫn bảo thủ một chủ nghĩa lỗi thời và từ đó ngăn chặn công cuộc dân chủ hóa và đổi mới ở các lãnh vực khác.

Người ta lầm tưởng là kinh tế quyết định mọi sự, nhưng thực sự mọi cuộc đổi mới kinh tế phải đi liền với mọi mặt cải cách xã hội chính trị. Nếu có tiến bộ kinh tế mà không có điều chính đồng bộ uyển chuyển về các mặt khác của xã hội, thì xã hội sẽ đi đến bế tắc. Chuyên chế độc tài toàn trị đơn nguyên là nguyên nhân cơ bản của mọi nguyên nhân.

Ta thử lược qua mấy mặt của xã hội Việt Nam ngày nay. Ngoại trừ một số tiến bộ cũ thể do đ1ong góp của các thành phần khác trong xã hội, người ta thấy những

Học Tập Cải Tạo

Sai lầm trong chính sách cơ bản là biến đổi công việc học tập cải tạo chính trị ngắn hạn và chính đáng cần thiết cho dân, quân, cán chính VNCH thành một hành động hận thù, bất nhân, tàn bạo kéo dài của VNDCCH. Từ tàn bạo và dối trá đó, CSVN đã kích động thêm hận thù - như đâm lao thì phải theo lao - thay vì ccần ủng có tính nhân bản và tình đoàn kết toàn dân hai miền đã từ lâu vào cảnh đau khổ triền miền vì chiến tranh.

Chính sách sai lầm đó đã dẫn đến cuộc vượt biên đau khổ, nhục nhã và bất đắc dĩ sang các nước của biết bao nhiêu người VN dưới nhiều hình thức: ODP, HO, PIP… Cộng đồng người Việt hải ngoại đã một thời gian lâu dài bị coi là phản động. Lúc tình hình VN thay đổi, thì Việt kiều lại được coi là người yêu nước, là khúc ruột ngàn dặm, khi họ gửi tiền và đem tài ba về giúp nước.

Những biến đỗi vũ bão và những tiết lộ sau đó về thực chất chế độ CS ở Liên Xô và Đông Âu từ chung quanh năm 1990 vẫn không mở mắt những người CSVN, dù người CSVN đã xây dựng chế độ được 15 năm.

Sợ “Diễn Biến Hòa Bình”: Cảnh Giác Không Đúng Chỗ

Khi cộng đồng hải ngoại tiếp xúc với các luồng tiến bộ khác nhau trên thế giới và chia sẻ những quan sát và hiều biết đó cho những người ở trong nước, thì chính Đảng Cộng sản muốn ngăn chặn tiến bộ, che mắt dân trong nuớc để lừqa dối dân chúng, củng cố chế độ bằng khóm từ chống “diễn biến hòa bình”. Sợ diễn biến hòa bình có nghĩa là bịt mắt sợ ma tiến bộ!

Ngoại Giao Bị Bao Vây Và Phân Hóa

Vì bị cộng đồng thế giới cô lập từ 1975 đến 1990, đúng vào thời điểm chế độ Cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu tan rã, cộng đồng hải ngoại Việt Nam dần dần hính thành, thì nền ngoại giao của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hầu như bị tê liệt.

Nhân viên ngoại giao chỉ còn thực sự hoạt động ở một số nước nghèo đói ở Phi Châu và mấy nước còn thuộc chế độ cộng sản Liên Xô. Nhiều người làm ngành ngoại thiếu tư cách như buôn lậu á phiện Úc châu, Canada…) , ngà voi, sừng tê ({Phi châu..), xuất khẩu lao động (Mã Lai,…), phụ nữ trai gái vị thành niên (Cam Pu Chea, Trung quốc, Hàn quốc, Đại Loan,…), trồng cần sa (Anh quốc, Mỹ, Canada,…) lấy tiền, bài bạc, và buôn lậu đồ la, ăn cắp mỹ phẩm (Nhật Bản, …). Người Việt Nam trong cộng đồng tiến bộ thế giới làm sao còn hãnh diện về quốc gia của mình!

Ở các nước tiền tiến Tây Phương, hoạt động ngoại giao của Việt Nam ngày nay đồng nghĩa với làm tình báo gián điệp trong cộng đồng người Việt hải ngoại và vận động tài chánh cho đất nước!

Giáo Dục Cải Cách Lòng Vòng

Giáo dục là chìa khóa đầu tiên để đào tạo con người, xây dựng xã hội mới về kiến thức và tư cách đạo đức Nhưng chế độ chuyên chế độc tài toàn trị kiểu mafia đã không cho phép cải cách giáo dục triệt để. Biết bao sáng kiến đề nghị cải cách giáo dục không có kết quả vì người ta lẩn tránh cải cách quasn trọng tiên quyết nền tảng là cải cách chế đồ chủ trương nền giáo dục đó.

Chìa khóa của mọi cải cách có thể thực hiện được là một xã hội khai phóng thông thoáng dân chủ, tạo điều kiện cho sự hình thành và uốn nắn con người về tri thức và đạo đức. Thiếu lòng kính trọng những tầng lớp có giáo dục, có trí thức thực sự, thì khó đạo tạo những người có năng lực thật sự. Nhu cầu đồng bộ hóa về bằng cấp và tiêu chuẩn học vấn đã tạo ra tệ nạn mua bằng, giả bang, thi hộ, gian xảo ỏ nhiều cấp và lãnh vực xã hội.

Tham Nhũng Tràn Lan

Tầng lớp đảng viên và quân nhân của chế độ thiếu đào tạo giáo dục chính đáng, đế có ý thức về trách nhiệm và về tinh thần phục vụ công ích, đã tha hồ tham nhũng, nhất là họ đã được nắm quyền trong hoàn cảnh chế độ chuyên chế và hầu hết xuất thân từ hoàn cảnh xã hội nghèo khổ, thiếu thốn trước kia.

Mạnh ai nấy tham nhũng tràn lan ở các địa phương, ớ các cấp, các ngành. Hầu như không thuốc chữa nếu không thay đổi giới cầm quyền và từ bỏ những cơ hội tăng thêm nạn tham ô bằng các nấc và biện pháp mạo danh là quản lý hành chánh và pháp luật!

Người ta biện minh cho tham nhũng, bằng cách nói rằng xã hội nào chả thế! Nhưng sao không can đảm nói rằng người ta bê bối như thế, nhưng đất nước tôi không tiêu cực như vậy!

Lực Lượng Võ Trang Bảo Vệ Một Đảng

Chế độ quân sự được tổ chức kiểu mafia để bảo vệ một nhóm người. Cứ xem những người được tuyển dụng để biết họ xuất xứ từ đâu (nhiều thanh viên trộm cướp, xi ma, du đãng… được tuyển dụng vào quân đội, công an…). Thực sự nếu các thành phần xã hội, tôn giáo, … khác nhau được tuyển lựa, thì hàng ngũ quân đội hay công an đó mới là những người đại diện chân chính cho quốc gia.

Hành động của chính quyền và công an trong vụ Tòa Khâm Sứ và Thái Hà tại Hà Nội là thí dụ điền hình, biếu trưng thực sự cho tư cách của giới cầm quyền và quân đội CHXNCNVN

Sinh Hoạt Chính Trị Bế Tắc

Vì chỉ có một đảng cộng sản, nên chỉ có một khuôn khổ tổ chức xã hội. Người ta nhân danh là một đảng thống nhất, nhưng thực chất vẫn là một nhóm người thiếu sáng kiến và đào tạo, thiếu những khuôn mẫu uyển chuyển cho xã hội, mỗi khi cần đáp ứng với nhu cầu trong tình thế mới.

Các cơ chế quốc gia không hoạt động đùng chức năng: nhà nuớc, quốc hội, cơ quan, đoàn thề, mặt trận tổ quốc, tòa án,… không có thực quyền ngoài chuyên chính của Đảng.

Luật pháp được lập ra để biện minh, hay che đậy hoạt động của Đảng chứ không phải để điều hòa xã hội và bảo vệ quyền lợi của dân. Bí mật quốc gia bị lam dụng để che đậy những hành động mờ ám phương hại đến quyền lợi nhân dân và công ích quốc gia.

Tệ Nạn Xã Hội Gia Tăng

Không cần thiên vị chủ quan, người ta thấy vì thiếu giáo dục và phán đoán lành mạnh, xã hội Việt Nam ngày nay bị đe dọa bởi nhiều loại tệ nạn khiếp sợ, có ảnh hưởng lâu dài cho đất nước Việt Nam. Người ta khó lòng kể xiết và mô tả đầy đủ các tệ nạn đó.

Chí nhắc đền một số tệ nạn mà báo chí và công luận, truyền thông thế giới nói đến như : tệ buôn bán ma túy, trồng lậu cần sa á phiện, nạn phá thai, nan buôn bán trẻ trai gái vĩ thành niên mãi dâm, xuất khẩu lao động vô trách nhiệm kiểu “đem con bỏ chợ”. HIV/AIDS, buôn lậu nhiều loại sản vật, nạn đành bài bạc, nghiện rượu say sưa,…

Điều đáng báo động là nhiều tệ nạn xã hội đó đã lan tràn đến tầng lớp cầm quyền và đảng viên!

Một xã hội như vậy, mà khốn thay, chưa mở mắt được những giới có trách nhiệm cầm quyền ở Xã Hội Việt Nam ngày nay, mà họ vẫn tự đắc tự phụ cho mình là “Đỉnh Cao Trí Tuệ”!

Đỗ Hữu Nghiêm (Oakland, CA Sun, May 17, 2009)

Rạn nứt lớn trong nội bộ Trung ương CSVN vì cơ chế ém tin - bảo vệ chính trị nội bộ

Theo nguồn tin từ nội bộ của Cộng sản Việt Nam mà chúng tôi biết được, hiện đang có rạn nứt lớn trong trung ương CSVN vì cơ chế ém tin. Cơ chế ém tin là một cơ chế có từ khi hình thành nhà nước Cộng sản. Theo cơ chế này tuỳ từng cấp đảng viên mà được tiếp cận với các tin khác nhau. Cùng là UVTƯ cùng có quyền tiêp cận tin, nhưng tuỳ từng trường hợp lại được tiếp cận tin trước hay sau. Các uỷ viên thường trực của các cơ quan đảng thường trực giữa các kỳ họp hội nghị trung ương được tiếp cận tin tức thời. Các uỷ viên không nằm trong số này được tiếp cận tin tại các kỳ họp đại hội…

Đã xảy ra trường hợp các quan chức Cộng sản lợi dụng cơ chế này để ém tin, hoặc chỉ thông tin vào thời điểm có lợi nhất cho cá nhân hay phe nhóm của mình. Điển hình của việc này là đại dự án Bô-xít Tây Nguyên. Các quan chức chủ trương và hưởng lợi lớn từ đại dự án này thì dựa vào các câu chữ chung chung mơ hồ trong các văn kiện đại hôi TƯCS các khoá trước rồi ngấm ngầm thực hiện cho đến khi triển khai vẫn nằm trong bí mật… Chỉ khi người dân phải di rời và chứng kiến các đại công trường cùng với hàng ngàn công nhân Trung Quốc trên cao nguyên nhuốm đỏ góc trời, báo chí nước ngoài lên tiếng… Một vài nhà báo tự do hay một vài nhà báo vượt rào lên tiếng, rồi các nhà khoa học lên tiếng… Các quan chức Cộng sản đã về hưu mới biết mà lên tiếng … Nhân dân, nhà khoa học, một vài quan chức nhà nước lên tiếng chỉ trích cơ chế ém thông tin trong đảng Cộng sản đã bị lợi dụng trong vụ việc này… Các đảng viên Cộng sản cũng bắt đầu lên tiếng về việc phải có thông tin rộng rãi hơn cho những vấn đề mang tính toàn xã hội … Phải giới hạn qui chế ém thông tin nhân danh việc bảo vệ an ninh, bảo vệ chính trị nội bộ …

Trong nội bộ Cộng sản Việt Nam, chúng vẫn cho phát hành “Bản tin nội bộ” , “Thông báo nội bộ” thuộc tài liệu mật, chỉ phổ biến trong nội bộ, cho đảng viên các cấp… Nhưng có vẻ như các cấp đảng viên không mấy tin tưởng vào tính chất thời sự, trung thực của các bản tin này… Cho nên mặc dù chúng được nhận nhiều tin tức hơn người dân, nhưng vẫn có luồng tin “Truyền miệng” và đảng viên Cộng sản luôn dỏng tai để tiếp nhận và xử lý các tin tức từ nguồn này …

Có thể nói Cộng sản là tập đoàn độc tài tập thể, độc tài luân lưu… Chính việc truyền tay nhau thực hiện độc tài quyền lực trong nội bộ đảng làm cho bộ mặt độc tài của Cộng sản khác với các thể chế độc tài quân sự ở Châu Phi … Việc che dấu bộ mặt độc tài tinh vi này làm cho công luận thế giới ít chỉ trích tính chất độc tài của Cộng sản hơn các thể chế độc tài quân sự Châu Phi. Trong khi độc tài Cộng sản nguy hiểm hơn độc tài quân sự kiểu Phi Châu rất nhiều…

Các chức vụ đứng đầu trong nội bộ đảng, nhà nước Cộng sản được luân lưu truyền tay nhau … Những kẻ tiếp nối cầm quyền luôn là “con tin” của nhiều phe nhóm, nhiều chính sách… Phải điều hoà được với các thế lực Cộng sản kỳ cựu già nua đã nghỉ hưu với cá thế lực đương quyền, và cả với các thế lực đang chờ kế vị … Đã có các trường hợp tranh chấp quyền lợi giữa thế lực đương quyền và thế lực chờ kế vị, vì kẻ đương quyền sắp nghỉ hưu này tìm mọi cách vơ vét trước khi nghỉ … Còn những kẻ chờ kế vị thì cảm thấy bất bình vì nhận ra khi lên tiếp quản quyền lực, không còn nguồn lợi nào đáng kể …

Qui chế hoạt động của Tổng Bí Thư ĐCSVN mặc dù được đem ra bàn thảo xây dựng từ lâu, nhưng đến nay chưa ra đời… Ý định xây dựng một UBKT độc lập do đại hội bầu ra, bao gồm những người không phải là UVTƯ để giám sát các UVTƯ và việc thực thi các nghị quyết TƯ mặc dù được đề xuất từ đại hội 7 – 8 nhưng đến nay vẫn trên giấy ở giai đoạn đồ án… Có điều đặc biệt là kỳ đại hôi TƯCS vừa qua, Trung Quốc công khai can thiệp vào các ý định này thông qua việc Hồ Cẩm Đào phát biểu cảnh báo đảng Cộng sản Việt Nam đã đi quá xa với các nguyên tắc lãnh đạo CSCN … Trong khi đó có nhiều lão thành CSTQ lại lên tiếng ca ngợi CSVN và nói rằng CSTQ nên học tập tư duy đổi mới, dân chủ hoá trong đảng của Cộng sản Việt Nam.

Gần đây, một cựu uỷ viên TƯCSVN hai khoá liên tục - Tên Cộng sản bồi bút Hữu Thọ lại lên tiếng đòi cơ chế giám sát độc lập trong đảng (http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=160876&ChannelID=2) - Cần nói thêm Hữu Thọ lúc đương quyền nổi tiếng là kẻ bồi bút, cơ hội, chưa từng dám có các ý kiến trái chiều, hoặc thường đưa các ý kiến trái chiều mang tính chất tự bộc lộ sự phi lý để TƯ dễ bề gạt bỏ… Việc Hữu Thọ lên tiếng và được báo chí bồi bút Cộng sản đăng tải là dấu hiệu cho thấy đây là vấn đề lớn …

Theo giới quan sát phân tích chính trị độc lập tại Hà Nội có rạn nứt lớn trong trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Số bảo thủ vẫn dùng các thủ pháp truyền thống, qui kết việc đòi hỏi dân chủ hoá trong đảng, thực hiện quyền được nhận tin và thông tin của đảng viên là các bước đi nguy hiểm. xa rời nguyên tắc tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong tình hình phức tạp hiện nay… Nhưng nhóm chống đối thì cho rằng việc ém tin, áp dụng tuỳ tiện cơ chế bảo mật, cơ chế đảng lãnh đạo đã làm cho tham nhũng thêm trầm trọng. Họ đòi phải có cơ chế để giám sát việc hiểu, việc thực hiện các nghị quyết của đảng…

Các cơ chế “đặt hạng mục bí mật” – “bảo vệ chính trị nội bộ” – “Xử lý tin trước khi thông tin” – “tiếp cận tin theo cấp bậc, chức vụ” … của Cộng sản thời chiến tỏ ra có hiệu quả trong việc lừa bịp dư luận đổi trắng thay đen … Nhưng trong thời bình, nó bị quan chức Cộng sản lợi dụng để tham nhũng… Và tham nhũng thì không thể có ăn chia đều … Nên nội bộ Cộng sản lục đục … Đây là dấu hiệu cho thấy bản thân đảng viên Cộng sản đã đụng phải và nhận ra tính chất phi lý của các cơ chế quản lý xã hội Cộng sản chủ nghĩa… Nếu không thay đổi nó đe doạ sự tồn vong chế độ. Họ đòi phải sửa đổi cơ chế một cách hữu hiệu, chứ không phải vá víu tạm bợ một cách vô hiệu như trong thời gian qua. Nhưng nếu thay đổi hữu hiệu thì đương nhiên phải thay từ hiến pháp mà trước tiên là thay điều 4 hiến pháp. Mà nếu thế thì như Nguyên Minh Triết nói: Bỏ điều 4 hiến pháp là chúng ta tự sát.

Rạn nứt trong nội bộ trung ương Cộng sản Việt Nam về cơ chế ém tin, cơ chế giám sát quyền lực thực chất là vấn đề bế tắc trong lý luận về nhà nước và pháp luật Cộng sản. Giải quyết được nó cũng đồng nghĩa với việc khai tử chế độ Cộng sản. Thế là rạn nứt, mâu thuẫn trong nội bộ Cộng sản trở thành mâu thuẫn đối kháng. Dùng ngay triết học Mác-Lênin người ta cũng thấy nó chỉ ra rằng: Quân cờ đômino đầu tiên sắp đổ, hay cách mạng sắp nổ ra ở mắt xích yếu nhất.

Lê Sáng


BANH VE BANG MOM


Kiến thức của tôi về hội họa không nhiều, đầu óc lại thực thà chất phác, nghe người ta nói “bánh vẽ” tưởng đó là bức tranh vẽ cái bánh nên thắc mắc, tự hỏi: ai đời lại đi vẽ bánh. Bèn tra cứu trên mạng Internet xem các danh hoạ đông tây có ai vẽ bánh không, thì thấy phần lớn người ta vẽ phong cảnh, vẽ người, vẽ hoa trái, vẽ trừu tuợng, lập thể… Ví dụ như Césane hay vẽ trái cây, Gauguin vẽ dân quê, Van Gogh vẽ cảnh đồng ruộng, Bùi Xuân Phái vẽ phố Hà Nội… không thấy ai vẽ bánh.

Lại đi hỏi các nhà văn, mới hay “bánh vẽ” chỉ là một từ bóng bẩy để chỉ những chuyện người ta phịa ra để dụ khị, để lừa gạt người khác. “Bánh vẽ” đi liền với xảo trá, ba xạo nên ai cũng sợ, nhờ thế mà nó nổi tiếng. Có thể nổi tiếng ngang bằng chú Cuội.

Đặc biệt cái bánh vẽ ấy lại do các nhà chính trị vẽ. Họ không vẽ bằng cọ mà vẽ bằng mồm.

Ngày xưa ông Khổng Tử vẽ cái bánh “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý, đất nước đứng hàng thứ hai, vua thì coi nhẹ) là để sau này làm tài liệu tham khảo cho người ta vẽ ra cái bánh “dân là chủ, đảng viên là đầy tớ của dân” đem đi chào hàng khắp trong thiên hạ.

Đầu thế kỷ 20 có các ông Karl Marx, Lénine vẽ cái bánh “thiên đường cộng sản” rất thơm, rất bự, có thể nuôi sống cả nhân loại, vì vậy mà hàng trăm triệu người đã chạy theo, đánh nhau chí chóe.

Về sau người ta thấy cái bánh ấy chỉ là bức hình vẽ trên giấy bìa cứng, không ăn được, nên ai cũng tự đi kiếm ăn, cái bánh vẽ bị mưa nắng dãi dầu, tróc sơn, nhạt màu, mục nát hết. Các môn đệ chạnh lòng bèn đem nó cất vào viện bảo tàng cho đỡ tủi.

Ở Việt Nam ta, các môn đệ của quý ông Marx, Lénine có lẽ vì sĩ diện lớn quá, và cũng vì sợ “quê” nên chưa chịu đem cất cái bánh vẽ ấy vào bảo tàng mà vẫn còn dọn ra mâm bắt các đảng viên, công chức và sinh viên “ăn” mỗi ngày, còn quý thầy thì “nhai lại” hết năm này qua năm khác như những con bò già mệt mỏi.

Xem ra ở Việt Nam cái món “bánh vẽ” vẫn còn có người nhai, nếu không sao gần đây lại có ông quan lớn ở một thành phố miền Trung nọ tung ra thị trường loại bánh có tên thương mại là “Bầu trực tiếp Chủ tịch thành phố”.

Có người qua đường liếc nhìn cái bánh ấy, bèn hỏi:

-Bầu trực tiếp Chủ tịch thành phố, vậy ai được quyền ứng cử?

Đáp:

-Mọi công dân Việt Nam tuổi từ 18… đều được quyền ứng cử.

-Không là đảng viên cộng sản, ứng cử được không?

-Được tuốt. Nếu có Mặt Trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ…giới thiệu.

-Vậy có khác gì bầu đại biểu quốc hội?

-Ừ… cũng giống như vậy…

-Nhưng nếu ông Chủ tịch thành phố mà giống như mấy lão “nghị gật” bù nhìn thì chán chết.

Vị quan nọ xem chừng cái bánh của mình bị khách hàng chê bèn nói:

-Nếu anh không là đảng viên mà đắc cử Chủ tịch Thành phố thì đó là điều rất mới chứ. Đó là một bước đột phá ngoạn mục.

Người nọ bèn đặt vấn đề:

-OK. Giả dụ như tôi đắc cử Chủ tịch thành phố nhưng tôi lại không phải đảng viên, thì khi họp thành ủy tôi đâu được quyền tham dự.

-Ôi dào! Anh tham dự làm gì? Họp hành chán lắm anh ơi!

-Nhưng các giám đốc Sở, dưới quyền tôi, thì đều tham dự vì họ đều là đảng viên, vậy họ nghe lệnh ông Bí thư thành ủy hay nghe lệnh tôi?

-À…ả…cái đó thì… nhưng mà nghe lệnh ai thì cũng là làm việc nước cả.

Người nọ cười, rồi kể một câu chuyện dân gian:

-Xưa có ông nhà giàu rất cưng con mèo của mình, bèn đặt tên nó là Trời. Hàng xóm hỏi:

“Sao lại đặt tên như vậy?”

“Vì Trời là lớn nhất.”

“Nhưng trời sẽ bị mây che.”

“Thì đặt tên nó là Mây.”

“Mây sẽ bị gió thổi.”

“Thì đặt tên là Gió”

“Gió sẽ bị tường ngăn lại,”

“Thôi, để tôi đặt tên nó là Tường vậy.”

“Nhưng tường lại bị chuột đào hang, rồi sẽ sụp đổ.”

“Thế thì chọn tên Chuột.”

“Ông không biết là chuột sẽ bị mèo ăn thịt sao?”

Người nọ thở dài ngao ngán:

“Đừng nói nữa. Xưa nay người ta gọi nó là mèo thì cứ gọi Mèo cho xong chuyện!”



Loa phóng thanh “tra tấn” người dân Hà Nội

Trần Ánh Tuyết, 33 tuổi, viên chức thông tin văn hóa của phường Phương Mai, đọc tin tuyên truyền qua hệ thống loa phóng thanh ở Hà Nội. Chiến tranh đã chấm dứt hơn 34 năm qua và xã hội Việt Nam đang tiến vào thế giới điện tử mà hàng triệu người đang sử dụng internet mỗi ngày. Hệ thống loa phát thanh gắn từng khu phố mà nhà nước dùng để tuyên truyền từ sáng đến tối mỗi ngày cả nửa thế kỷ nay, buộc người ta phải nghe dù muốn hay không. (Hình AP).
Monday, May 18, 2009 - HÀ NỘI - Dù muốn hay không, ông bà già hay trẻ con mới đẻ cũng đều phải nghe những lời tuyên truyền của chế độ CSVN từ sáng sớm đến tối mịt.
Mà không phải ở các vùng quê, ngay thủ đô Hà Nội cũng vẫn còn hệ thống loa tuyên truyền treo trên các cột điện trong thành phố.
Mỗi ngày, từ khoảng gần 4 giờ chiều, bà Hoàng Thị Gái cố dỗ đứa cháu mới có 5 tháng cho nó ngủ để còn sửa soạn bữa cơm tối cho cả nhà. Chỉ 15 phút sau, mấy cái loa trên cột điện ngoài phố Hà Nội phóng âm thanh chát chúa vào nhà.
“Nó giật mình ré lên khóc và mặt nó đổi mang màu tím.” Bà Gái 61 tuổi, kể. “Đứa cháu yêu của tôi vẫn không quen nổi với cái thứ âm thanh đó”.
Đối với một đất nước đang thay đổi nhanh chóng mà chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng từ lâu, đây là một cái tàn tích khó lòng quên được. Một hệ thống loa phát thanh được thành lập trên cả nước để nhà cầm quyền tuyên truyền từ mờ sang đến tối, mỗi lần 30 phút, dù người dân muốn nghe hay không.
Bây giờ chính trị gia cũng biết xài internet muốn bỏ cái hệ thống loa đi để cho các tin tuyên truyền vào internet, chỗ mà người dân có thể đọc khi rảnh rỗi.
Khi còn chiến tranh, hệ thống loa tuyên truyền rất cần thiết để thông báo các vụ dội bom của máy bay Mỹ. Bây giờ, các chương trình phát thanh trên loa trộn lẫn tin tức địa phương, những câu đố tuyên truyền, bài viết nói về ý hệ Cộng sản và các bài hát yêu nước.
“Tôi phải nhìn nhận, đối với những người sống ở gần cái loa, đó là tai họa. Nó hành lỗ tai người ta.” Phạm Văn Hiển nói trong cụôc phỏng vấn của hãng thông tấn AP.
Hiển, 38 tuổi, là chủ tịch phường Phương Mai, một trong 50 phường ở thành phố Hà Nội. Ông vận động chống lại hệ thống loa phát thanh tuyên truyền lỗi thời và được sự ủng hộ rộng rãi của những người tham dự các diễn đàn internet, các ngừoi viết blogs các báo điện tử.
“Hãy tưởng tượng nhà anh ở gần cái loa phát thanh tuyên truyền và có người trong gia đình ốm sắp chết mà vẫn cứ phải nghe mãi cái bài hát “Không có ngày nào đẹp như ngày hôm nay”, một cư dân tên Trần Hùng viết than phiền với báo Tiền Phong điện tử.
“Như vậy là độc ác”. Hùng viết tiếp. “Nếu hàng xóm của tôi gây ra cái âm thanh đinh tai nhức óc đó, tôi kiện nó ra tòa. Tại sao nhà nước tự cho mình cái quyền làm ồn?”

Loa phát thanh tuyên truyền gắn trên cột đèn ở thành phố Hà Nội. (Hình AP)

Tại bộ Văn Hóa, Thể Thao, Du Lịch, cơ quan chủ quản hệ thống loa phát thanh, quan chức ở đây từ chối bình luận về lời phê bình của ông Hùng.
Còn ông Hiển nói ý kiến của ông được rất nhiều người ở cấp cao hơn trong đảng cộng sản tán đồng và muốn ứng dụng kỹ thuật mới để cải thiện hình ảnh của Đảng. Nhưng ông ta cũng không muốn thúc đẩy quá mạnh vì sợ các xếp sẽ khó chịu. Vì vậy ông chỉ muốn chỉ ra cho họ thấy làm sao hệ thống tuyên truyền này được hiện đại hóa và hy vọng các xếp lớn hiểu được thông điệp. Nghĩa là dân chúng “phải được quyền lựa chọn cái họ muốn nghe chứ không phải bị bắt buộc phải nghe”.
Hàng ngàn cơ sở trên cả nước được dùng làm nợi phát thanh tuyên truyền hàng ngày qua hệ thống loa. Chỉ riêng tại Hà Nội đã có 577 địa điểm. Họ đẽo gọt bản tin hàng ngày cho hợp với nhu cầu địa phương nhưng bao gồm rất nhiều tin của Bộ Văn Hóa.
Ở khu vực của ông Hiển có 20,000 người thì có 60 hệ thống loa đặt trên các cột điện và phát thanh từ cái phòng canh nhỏ bé.
Một ngày gần đây, người đọc bản tin là bà Trần Ánh Tuyết, viên chức nhà nước 33 tuổi. Bà đọc từ một tờ tài liệu có tên “Gia Đình Hạnh Phúc”, thông báo tin tức về cụôc kiểm kê dân số sắp xảy ra. Rồi bà kêu gọi mọi người “nâng cao đời sống tinh thần” bằng cách bỏ coi TV và tham dự các biến cố văn hóa.
“Hãy làm cho thành phố Hà Nội đẹp dưới mắt bạn bè quốc tế.” Bà đọc như vậy và thúc giục người ta tạo ra một “khung cảnh lịch sự và văn hóa”.
Các buổi phát thanh hay thúc giục người ta theo gương Hồ Chí Minh theo sự tuyên truyền của chế độ khác với những gì mà nhiều tài liệu được giải mật từ Nga, từ Trung quốc đã cho biết.
Trang tin trên web của Hiển có tên “Tin Tức Phương Mai” cung cấp tất cả những gì mà người ta phải nghe qua loa phóng thanh, từ trận lụt tới sự tiên đoán của thầy bói Nga nói Obama sẽ đắc cử ở Mỹ.
Theo lời Hiển, quá nửa các nhà trong phường của ông có internet. Lại còn có thêm mấy tiệm dịch vụ internet. Ông cho hay trang web của ông có tới 800,000 lượt người thăm viếng kể từ khi được xuất hiện năm ngoái. Báo điện tử VietnamNet viết một bài về trang web này, tiếp theo là một bài của hệ thống truyền hình nhà nước.
Khi loa phát thanh bắt đầu chát chúa lỗ tai từ 7 giờ sáng, Nguyễn Thị Oanh, 23 tuổi, vùi đầu xuống bên dưới mấy cái chăn.
“Ai thèm để ý đến các cái tin họ đọc?” Cô nói. “Âm thanh lại quá tồi, giống như người nghẹt mũi.”

Không có nhận xét nào: