Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2009

TRON SANG CAM BOT VIET CONG VAN TIM GIET

THẢM TRẠNG NGHIỆT NGÃ CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN TẠI CAM BỐT
Trí Lực

Niềm tin tôn giáo là niềm tin mãnh liệt nhất của tất cả mọi người. Đó chính là đời sống tâm linh không thể nào thiếu vắng trong cuộc đời nhiễu nhương loạn lạc này. Đạo Phật đem lòng từ bi trải khắp mọi loài chúng sinh, từ có nghĩa là ban vui, bi là cứu khổ. Thiên Chúa rao giảng tin mừng với đức bác ái là lòng yêu thương và ơn cứu rỗi rộng khắp. Giáo lý Khổng Mạnh lấy đức tính nhân nghĩa làm đầu, rằng mọi người hãy đem lòng nhân từ để đối xử với nhau.

Chủ nghĩa Cộng sản vốn dĩ vô thần, xem tôn giáo như là thuốc phiện, mê hoặc và ru ngủ quần chúng. Bởi thế, bản chất cố hữu của chế độ Cộng sản là phi nhân, tàn bạo. Chúng ta hãy tưởng nhớ đến những nhà hoạt động tôn giáo trong nước, chỉ vì tận hiến cuộc đời để đi gieo trồng hạt giống nhân từ đức hậu cho chúng sinh, hay đi rao giảng tin mừng cho bá tánh, mà phải mắc vòng lao lý tù đày. Không ít những chức sắc của các tôn giáo đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn trong các ngục tù Cộng sản. Vào ngày 25 tháng 01 năm 2006, Quốc Hội châu Âu đã thông qua Nghị quyết 1481 lên án các tội ác chống nhân loại của các chính thể Cộng sản tại Liên Xô và các quốc gia khác.

Trong công cuộc đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền; trong đó có hoạt động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị chính quyền Cộng sản Việt Nam đang tâm chà đạp, bản thân tôi đã trải qua bao phen vào ra trong ngục tù Cộng sản. Nay, biết mà không nói là bất nhân, xin chân thành chia sẻ những nỗi niềm với bao người đang bị bức ép đọa đày bởi chính sách hà khắc của chế độ Cộng sản gian ác, nhằm đối phó với những sự lường láo tráo trở, xảo quyệt điêu ngoa của bản chất Cộng sản.

Như đã có dịp trình bày với quý độc giả trong và ngoài nước trong các bài trước, do không chịu nổi cảnh cá chậu chim lồng, bởi sau khi mãn hạn tù, tôi còn phải chịu cảnh 5 năm quản thúc. Tôi sống trong tình trạng không có bất cứ một quyền căn bản nào của một con người, tất cả các quyền công dân hoàn toàn bị chính quyền Cộng sản tước đoạt, trên mảnh đất Việt Nam thân yêu không còn một nơi nào khả dĩ dung thân. Bởi thế cho nên, tôi không còn sự chọn lựa nào khác, phải đành lòng tìm đường vượt biên giới sang Cam Bốt lánh nạn.

Sau khi trình diện với văn phòng Phủ Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tại Phnom Penh, trong thời gian chờ đợi cơ quan này cứu xét quy chế tỵ nạn, tên tình báo Cộng sản Nguyễn Công Cẩm đã vài ba lần gặp gỡ tôi ngay tại văn phòng Phủ Cao ủy, y đã gạ gẫm tôi, hãy đưa cho y các loại giấy tờ để y giúp dịch sang Anh ngữ, sau đó gửi lên Phủ Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc để được phỏng vấn và công nhận tư cách tỵ nạn nhanh hơn. Mặc dù tôi đã hết sức cảnh giác, đã khước từ, nhưng rồi không bao lâu sau khi tôi được công nhận quyền tỵ nạn, thì hàng chục hàng trăm tên tình báo mật vụ Cộng sản Việt Nam hoạt động tại Cam Bốt trong đó có tên Nguyễn Công Cẩm cũng đã trắng trợn bắt cóc tôi giữa chốn đông người ngay trước khu chợ O´Russey, thủ đô Nam Vang. Bọn chúng giải giao tôi về trại giam B34 của bộ Công an Cộng sản tại Sài gòn, giam giữ một cách nghiêm ngặt để điều tra, xét hỏi. Với lối chứng minh bắt cầu theo nghiệp vụ điều tra kiểu Cộng sản, bọn chóp bu an ninh điều tra A24 cho rằng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tổ chức chống phá nhà nước, nên đã kết tội tôi với tội danh ” Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân” theo điều 91.

1. Cài đặt

Bước đầu, để phục vụ cho việc điều tra xét hỏi, công an điều tra và quản lý trại giam luôn luôn cài đặt ”ăng-ten”. Chúng đưa những tội phạm hình sự hay kinh tế “nhảy xô”, nhằm khai thác thông tin từ các bị can liên quan đến vấn đề chính trị và tôn giáo. Những tay nhảy xô chuyên nghiệp này thường có mức án cao nên mong được giảm án, họ đang lao động ngay tại trại giam, hoăc từ các trại tù cưỡng bức lao động di lý về. Có trường hợp trại giam ngụy tạo ra quyết định thi hành kỷ luật để có cớ đẩy người vào buồng giam, chịu khổ nhục kế như bị cùm chân hòng đánh lừa, đồng thời dằn mặt chúng ta để khai báo. Trước khi nhận lãnh công tác nhảy xô, chúng được những tên cán bộ điều tra dặn dò kỹ lưỡng, đồng thời họ được hứa hẹn giảm án, tùy theo mức độ lập công chuộc tội. Qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta không dại gì tâm sự kể lể dài dòng, cứ nói chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt. Khoảng thời gian chừng một tuần, hay mười ngày, kẻ ăng-ten lại được gọi ra làm việc kết hợp với việc thăm nuôi, y sẽ báo cáo những thông tin nghe ngóng được từ chúng ta. Ăng-ten sẽ được thay đổi liên tục, tôi có cơ may đã cảm hóa được nhiều người, khiến họ phải thú nhận ngay từ những buổi đầu được giao nhiệm vụ nhảy xô, nên tôi được hiểu thêm phần nào những trò lọc lừa của bọn điều tra.

2. Đánh lừa

Đây là trường hợp trại giam B34 Sài Gòn ngụy tạo tình huống nhằm đánh lừa tôi. Ngày 25-07-2002, tôi bị bọn công an tình báo mật vụ Cộng sản Việt Nam hoạt động tại Cam Bốt bắt cóc đưa về Việt Nam. Có những buổi hỏi cung, chúng đưa thêm công an điều tra vào, như thể lấy thêm lời khai của tôi để sang thẩm vấn người chung vụ với tôi, để tôi lầm tưởng rằng, người đồng hành với tôi cũng đã bị bắt, khiến tôi phải thành thật khai báo, ngụy tạo ba mặt một lời. Thêm nữa, trước khi chuyển tôi sang buồng biệt giam ở một khu khác, tôi sẽ ở chung với bị can A, công an trại giam xếp đặt một người nào đó như thể bị tạm giam ở gần buổng với A, nêu tên xưng họ, quê quán và giọng nói (Nam, Trung hay Bắc) y chang như thiệt. Sau đó, A sẽ nói lại với tôi rằng, y có nghe được giọng nói người tên đó họ đó, để tôi lầm tưởng, người đồng sự cũng đã bị chúng bắt giam ở đây rồi, phải thành thật khai báo thôi, vì nghĩ rằng, nếu mình không khai thì có thể người kia cũng khai ra. Thế nhưng, hình như tôi có linh cảm và không tin đó là sự thật, tôi bèn rà hỏi một gã công an trại giam vào đưa cơm, gã công an ấy xác nhận chắc chắn rằng, ở trại giam B34 này, không có ai tên họ như vậy. Thế là, bọn chóp bu điều tra bể mánh đánh lừa.

Sau khi mãn hạn 20 tháng tù, Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã điều đình với chính phủ Thụy Điển đồng ý cho tôi được tỵ nạn chính trị tại vương quốc này theo quy chế tỵ nạn vẫn còn hiệu lực. Tại xứ sở này, tôi lại có cơ duyên thường xuyên được tiếp xúc gặp gỡ và trao đổi chuyện trò với những người Thượng Tây Nguyên hiền lành chất phát, được biết họ chạy sang lánh nạn tại Cam Bốt vào những năm gần đây. Chính những người đồng cảnh này lại là nguồn cung cấp thông tin vô cùng chính xác và trung thực, về những hiểm họa mà cả đồng bào Thượng lẫn người Kinh tỵ nạn phải đối mặt từng giờ từng ngày tại xứ Chùa Tháp. Những đồng bào Thượng này vẫn chưa hoàn hồn và thỉnh thoảng không cầm được nước mắt, khi họ chân tình kể cho tôi nghe những thông tin về những hoạt động tình báo của bọn mật vụ Cộng sản Việt Nam. Họ cũng chỉ đích danh tên tình báo đội lốt người tỵ nạn Nguyễn Công Cẩm, cùng những đe dọa của bọn chúng đối với những người Thượng và người Kinh tỵ nạn tại đó như thế nào?

3. Những sự đe dọa và bức hại của cơ quan mật vụ Cộng sản đối với đồng bào Thượng trong các trại tỵ nạn ở Nam Vang:

Những người Việt gốc Kinh từ Việt Nam sang đây lánh nạn, cũng như những người tỵ nạn thuộc các dân tộc khác đến từ châu Phi, Trung Đông hoặc Trung Cộng được gọi là Urban Refugees. Sau khi họ đã trình diện với Phủ Cao ủy Liên Hiệp Quốc để xin tỵ nạn, thì họ phải tự thuê mướn nhà cửa để tạm trú qua ngày cho đến khi được phỏng vấn, được cấp giấy tạm thời, quy chế tỵ nạn, sau đó họ được đi định cư ở một quốc gia thứ ba nào đó. Liên Hiệp Quốc sẽ không thiết lập trại tỵ nạn cho nhóm này, nên vấn đề an ninh hết sức mong manh. Bởi lẽ, theo nhận thức của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn tại đây, thì nhóm những người tỵ nạn này có khả năng xoay xở, cũng như có điều kiện kiếm sống qua ngày, ngay tại đất nước tạm dung. Thêm nữa, chính phủ hoàng gia Cam-Bốt phải cho phép họ tạm dung theo Công ước Quốc tế về người tỵ nạn năm 1992 mà Cam Bốt đã đặt bút ký kết.

Khác hẳn với nhóm này, đối với các sắc tộc thiểu số khác từ Việt Nam sang đây lánh nạn, đa số là đồng bào Thượng ở vùng Tây Nguyên, Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc thấu hiểu rằng, họ không đủ trình độ hay khả năng để hội nhập với xã hội Cam-Bốt. Họ cũng không thể nào tự xoay xở để kiếm kế sinh nhai, hoặc có thể trang trải các khoản tiền thuê nhà. Ngoài ra, chính phủ Cam-Bốt cũng không cho phép họ tạm dung trên đất nước Chùa Tháp này. Bởi thế cho nên, Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc phải thiết lập ba trại tỵ nạn: trại 1 tọa lạc ở thủ đô Phnom Penh, trại 2 tại khu vực Tuol Kork và trại 3 ở khu vực Toeuk Thla. Ngay sau khi trình diện với Cao ủy tỵ nạn, tất cả những người Thượng Tây Nguyên được tập trung vào trại 2 để chờ phỏng vấn. Sau khi được phỏng vấn, họ sẽ được thuyên chuyển sang trại 3 để chờ kết quả. Đến khi phủ Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc thông báo kết quả, người nào được công nhận tư cách tỵ nạn, sẽ được chuyển qua trại 1 để chờ lên đường định cư tại một nước thứ ba. Còn lại những người bị từ chối tư cách tỵ nạn, họ sẽ được đưa trở lại trại 2 đề chờ ngày bị cưỡng bức hồi hương.

Dù ở trại nào chăng nữa, mỗi người Thượng đều được cung cấp chỗ nghỉ ngơi khoảng chừng ba mét vuông và được cung cấp lương thực tối thiểu vừa đủ để sống qua ngày. Những người Thượng đáng thương khi kể chuyện với tôi, họ vẫn không khỏi bàng hoàng và bật khóc, khi nhắc đến hàng rào an ninh rất nghiêm ngặt bởi những tên tình báo Cộng sản Hà Nội mang quốc tịch Cam Bốt, chúng sử dụng thành thạo ngôn ngữ Khmer. Ngoài ra, cũng có cả một số nhân viên an ninh người Khmer đã từng được đào tạo nghiệp vụ tình báo tại Hà Nội. Chỉ huy tất cả lực lượng này là tên trung tá an ninh đang làm việc cho Bộ Nội vụ Cam Bốt mang tên Ly Heng, đích thị là tên Nguyễn Công Cẩm, người Việt tỵ nạn ở đây đã từng vạch mặt chỉ tên hắn ta. Nguyễn Công Cẩm có vỏ bọc là người tỵ nạn được Phủ Cao ủy công nhận, song thực chất chính là loài lang sói quỷ đỏ được sản sinh ra bởi tập đoàn Cộng sản Hà Nội.

Chính vì lý do này, mặc dù khi tiếp xúc với các nhân viên của Phủ Cao ủy tỵ nạn, họ được cam kết chắc chắn rằng, tất cả hồ sơ, thông tin và lời khai về nhân thân của người xin tỵ nạn sẽ được bảo mật, nhưng thực tế thì hoàn toàn trái ngược với những cam kết đó. Bởi chỉ sau khoảng vài ba ngày trình diện với Cao ủy tỵ nạn, thì oái oăm thay, những lời khai báo về những sự áp bức, khủng bố hay việc cướp đoạt đất đai bởi chính quyền Cộng sản đã được phía Việt Nam nắm rõ. Ngoài ra, toàn bộ hồ sơ, hình ảnh... đã từ những bàn tay lông lá của những tên mật vụ này chuyển về đến tận buôn làng của họ. Thế là, bọn công an ở các buôn làng này mặc tình tự tung tự tác. Chúng mời thân nhân của người tỵ nạn lên tra hỏi và cho xem bằng chứng, hình ảnh, lời khai... Đồng thời, chúng ép buộc những người này phải liên lạc thuyết phục người thân của mình ở Cam Bốt quay về đầu thú, hoặc tự nguyện hồi hương.

Ngoài những trò bỉ ổi lường láo đó, Ly Heng tức Nguyễn Công Cẩm còn chỉ đạo cho các trưởng trại phải móc nối một số người Thượng nhẹ dạ cả tin trong trại. Những người Thượng này sẽ làm ăng- ten hay tố giác chỉ điểm cho chúng về những trại viên có hành vi chống đối, hoặc là những trại viên nào thường nhảy hàng rào trốn ra ngoài, để tiếp nhận sự trợ giúp của nhóm tỵ nạn người Kinh. Ngoài ra, họ cũng thường xuyên tiếp nhận những kế hoạch biểu tình phản đối sự đàn áp và cưỡng bức hồi hương của Bộ Nội vụ Cam Bốt ngay trong trại. Những người này chắc chắn phải đối diện với những khó khăn về pháp lý, khi họ bị ép buộc phải quay trở lại buôn làng tại quê nhà như trường hợp Mục sư A Đung. Bọn tình báo mật vụ này còn dối trá với những lời hứa hão huyền, rằng ai cung cấp được nhiều thông tin về những người tỵ nạn chống đối khác, thì người ấy sẽ sớm được cấp quy chế tỵ nạn và sẽ sớm được đi định cư. Bởi thế, không ít người Thượng đã vào cuộc. Họ chỉ điểm và tố giác lẫn nhau, khiến cho không khí chia rẽ và hận thù trong mỗi trại ngày càng sôi sục trầm trọng. Thảm trạng này tăng cao đến mức báo động, khiến nhiều người phải vượt qua những mối hiểm nguy để vượt trại vào giữa đêm hôm khuya khoắt, ngõ hầu mong thoát được cái bẫy giết người và cảnh địa ngục trần gian này. Đó chính là cõi A tỳ địa ngục mà bọn công an mật vụ tình báo nối dài cánh tay quyền lực cho đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Bộ Nội vụ Cam Bốt lập nên, mà Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tại Nam Vang chỉ là kẻ vô tình tiếp tay cho họ. Chính quyền Cộng sản Việt Nam và Cam Bốt đã nhẫn tâm đọa đày các sắc tộc thiểu số vùng Tây Nguyên đang bị truy bức, đàn áp. Quyền sống của họ đang bị chà đạp một cách trắng trợn ở quê nhà và ngay cả trên xứ sở Chùa Tháp nữa.

4. Những sự bức hại và đe dọa của tình báo mật vụ Cộng sản cùng những trò bịp bợm nhằm bịt miệng bưng mắt đối với người Kinh tỵ nạn:

Số lượng người Việt gốc Kinh tỵ nạn tại Cam-Bốt không nhiều, so với đồng bào thuộc các sắc tộc thiểu số, có khi lên đến con số gần hai nghìn người. Thời điểm được xem là cao điểm, khi người Kinh trốn sang Cam Bốt lánh nạn vào năm 2007, con số lên đến khoảng chừng tám chục người. Tuy nhiên, Bộ Công an Cộng sản Việt Nam cũng cảm thấy hết sức quan ngại, bởi vì nhóm những người Kinh tỵ nạn xuất phát từ nhiều thành phần mà không ít là hàng trí thức. Trong số đó, có những sĩ quan, binh sĩ thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa; nhiều vị chức sắc các tôn giáo đã từng có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền ở quê nhà. Nhóm người Kinh này dù số lượng không đáng kể, nhưng lại có khả năng tổ chức tốt, vẫn còn tâm huyết với phong trào dân chủ quốc nội. Thêm nữa, đây chính là trung tâm trợ giúp tinh thần lẫn vật chất cho cả người Kinh và đồng bào Thượng tỵ nạn giữa chốn đất khách quê người. Điển hình là Hội Thánh Tin Lành do một người tỵ nạn là Mục sư Ngô Đắc Lũy chăn dắt. Sự việc này khiến cho công an mật vụ tình báo cùa chính quyền Cộng sản Việt nam lo ngại. Bọn chúng đã tính toán nhiều phương cách đàn áp, bắt cóc, khiến vị Mục sư này đã có lần phải lẫn trốn vào rừng sâu vào cuối năm 2007 mới thoát được nanh vuốt của loài sói lang Cộng sản. Điển hình một trong những tình cảnh như thế, để chúng ta biết rằng, công an Cộng sản hết sức cay cú hậm hực, chúng không từ một thủ đoạn tàn ác nào để triệt phá nhóm này cho bằng được.

Trong thời gian sang lánh nạn ở đây, tôi đã tìm hiểu được rằng, ngoài cơ quan tình báo đặc vụ có trụ sở tại Đại sứ quán Cộng sản tại Nam Vang, còn có một hệ thống chân rết tình báo gián điệp hoạt động trên khắp lãnh thổ Cam Bốt lên đến hàng nghìn tên. Chúng núp dưới lớp vỏ thương gia, doanh gia, chủ thầu xây dựng, kết hôn với người bản xứ... Đa số những tên này là bộ đội, cán bộ Cộng sản Việt Nam, chúng được cài cắm lại trưóc khi rút quân ra khỏi Cam Bốt vào đầu thập niên 90. Nhiệm vụ của bọn tình báo này là theo dõi nhất cử nhất động của mọi người dân Việt định cư trên đất nước Chùa Tháp, cũng như những người Việt vãng lai tại đây. Ngoài ra, chính quyền Cộng sản Việt Nam cũng đã cài đặt một tên tình báo cao cấp vào hàng ngũ người Việt tỵ nạn. Với cái vỏ bọc tỵ nạn chính trị, tên này không những gần gũi với những người Việt tỵ nạn, mà còn dễ dàng tiếp cận với văn phòng Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc tại Phnom Penh, cùng với những cá nhân hay tổ chức quốc tế có những hoạt động trợ giúp nhóm những người Việt tỵ nạn tại đây. Chính quyền Cộng sản độc tài toàn trị hình như đã thành công trong thủ đoạn này. Bởi lẽ như chúng tôi đã trình bày, ngoài cái vỏ bọc của một người tỵ nạn mang tên Nguyễn Công Cẩm, tên tình báo này còn là một nhân viên an ninh cấp tá của chính phủ hoàng gia Cam-Bốt mang tên Ly Heng.

Tôi đã từng gặp mặt Nguyễn Công Cẩm tại văn phòng Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh. Thật tình mà nói rằng, y có một thái độ lễ phép, lịch thiệp và hòa nhã một cách hết sức nghiệp vụ, nên người tỵ nạn mới gặp gỡ lần đầu rất dễ bị mắc lừa. Theo lời kể của những người tỵ nạn lâu năm, những người này đã biết quá rõ chân tướng của y, thì hắn ta hết dụ dỗ lại hăm he. Đã có lần y đem lời đường mật để câu nhử anh Ngô Văn Tài là người tỵ nạn làm chỉ điểm viên cho y với nhiều hứa hẹn, nhưng đã bị anh ấy khước từ. Y đe dọa bằng những cách hành xử y chang bọn xã hội đen, đối với bất cứ ai dám tố giác y trước Cao ủy tỵ nạn hay các cơ quan quốc tế đang hoạt động tại Cam Bốt. Mặt khác, y xoa dịu rằng, các anh chị hãy an tâm, dù tôi có lên cấp tướng hoặc làm gì đi nữa, thì cũng không bao giờ quay lại hãm hại anh các người đâu.

Đối với những người mới sang lánh nạn sau năm 2005, ngoài những cựu đảng viên của đảng Nhân Dân Hành Động và của Chính Phủ Tự Do, dường như không ai biết được Nguyễn Công Cẩm là ai? Đây chính là lợi điểm cho tên tình báo mật vụ này trong sự tiếp cận với họ. Một mặt y thu thập thông tin về lý lịch nhân thân, mặt khác y tung hỏa mù nhằm gây ly gián, bằng một số thông tin bâng quơ cho rằng, những người tỵ nạn kia chính là mật vụ hoặc tình báo của cộng sản đánh đi. Tiếc thay, có một số anh em dân chủ tuổi trẻ nhẹ dạ không tin rằng, tên Cẩm chính là công an mật vụ tình báo của Cộng sản Việt Nam, mặc dù hàng ngày họ vẫn thấy tên này trong quân phục an ninh Hoàng gia Cam Bốt mang quân hàm trung tá, đi đâu cũng lè kè súng ống hẳn hoi.

Đầu năm 2005, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam ra đời. Chi hội tại Cam Bốt cũng đã được người tử tù Nguyễn Phùng Phong đang tỵ nạn tại đây làm đại diện, nhằm tương thân tương tế người đồng cảnh gặp lúc khó khăn. Chính sự ra đời của Chi hội này, nên đã hơn một lần khiến cho người cựu tử tù này phải đối mặt với một vụ mưu sát của những sát thủ thuộc cơ quan tình báo Cộng sản tại Nam Vang.

Ngoài ra, tổ chức Trà Đàm Dân Chủ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước. Họ có cơ hội gặp gỡ nhau để nói lên niềm thao thức và luận đàm về hiện tình đất nước mà thôi. Thế mà báo chí của chính quyền Cộng sản Việt Nam lên tiếng đả kích, bôi nhọ, bằng những luận điệu hết sức vu vơ, để kiếm cớ truy bắt các vị này. Trong khi đó, tên Cẩm mang lốt tỵ nạn vẫn nghênh ngang giữa phố chợ đông người với súng ống và quân phục hẳn hoi. Giả sử rằng, nếu hắn ta là người tỵ nạn đích thực, thì liệu tình báo mật vụ Cộng sản dày đặc ở đây có để yên hay không? Đáng tiếc thay, một số anh em của chúng ta vẫn không nhận ra chân tướng của tên tình báo này, đến nỗi nhà dân chủ trẻ Lê Trí Tuệ phải sa vào tay của chúng nó, mãi cho đến nay, vẫn không ai biết số phận anh ấy sống chết ra sao!

Xin cảm ơn những đồng bào ruột thịt của chúng ta hiện đang định cư tại Thụy Điển, các vị đã chân tình góp thêm tiếng nói với chúng tôi, ngõ hầu vạch trần những âm mưu và thủ đoạn hiểm độc của chính quyền Cộng sản Việt Nam. Về hình thế địa lý, xứ Chùa Tháp là đất nước duy nhất mà những nhà dân chủ, những nhà bất đồng chính kiến trong nước lúc bị đàn áp, họ có thể vượt biên giới sang đó bằng đường bộ. Đặt bút viết bài này, không ngoài mục đích chia sẻ thông tin và lên tiếng cảnh giác cho những ai đang bị chế độ Cộng sản truy bức đọa đày ở quê nhà, khi không còn sự lựa chọn nào khác, đành lòng phải tìm đường sang đây lánh nạn. Mong rằng, sau khi được tái định cư ở một quốc gia thứ ba nào đó, quý vị sẽ hoan hỷ góp tiếng nói cùng chúng tôi, nhằm chỉ tên vạch mặt những tên tình báo mật vụ Cộng sản tại Cam Bốt đang ngày đêm gieo rắc tai họa cho người Việt tỵ nạn chúng ta.

Ước mong rằng, với những thông tin được thu thập ở đây, Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn, Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Quan sát Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, cùng các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới, sẽ có cơ sở ngõ hầu trợ giúp và bảo vệ người Việt tỵ nạn một cách hữu hiệu hơn. Đồng thời, tôi cũng khẩn thiết kêu gọi chính quyền Cộng sản Việt Nam hãy ngưng ngay tội ác chống lại những người bất đồng chính kiến, những người đang ngày đêm đòi hỏi tự do, dân chủ và quyền con người trên đất nước Việt Nam thân yêu. Bởi lẽ, những nhà dân chủ, những nhà bất đồng chính kiến là những người yêu nước đích thực. Những người này đang ngày đêm mong muốn cả dân tộc Việt Nam được ấm no hạnh phúc. Họ ước mơ tổ quốc giang sơn Việt Nam được hưng thịnh, phú cường. Các vị ấy không phải là mối đe dọa hiểm nguy đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam, mà chính bè lũ Tàu Cộng đang mượn cớ đến khai thác Bô Xít ở Tây Nguyên mới là hiểm họa khôn lường, đối với sự tồn vong của tổ quốc và dân tộc Việt nam. Tập đoàn bộ Chính trị Cộng sản Hà Nội đã và đang tiếp tay với quan thầy Bắc Kinh để bán đứng đất nước này, mà quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã rơi vào tay bọn chúng, đây chính là tội đồ của dân tộc Việt Nam, lịch sử mai hậu sẽ phán xét tội ác này.

Bao nhiêu năm sống trong cảnh hà khắc dưới chế độ Cộng sản, ngần ấy năm người dân Việt phải gánh chịu bao nỗi tang thương, đọa đày khốn khổ. Chúng ta hãy cùng nhau chắp tay thành tâm cầu nguyện, ngưỡng vọng hồn thiêng sông núi, anh linh tổ quốc, thùy từ giáng lâm phù hộ cho con dân Lạc Việt, sớm thoát khỏi sự dày xéo lầm than bởi chế độ Cộng sản bạo tàn.

Thụy Điển, 24-05-2009
Trí Lực
Tại sao Việt cộng còn tồn tại đến hôm nay
Bảo Giang

Hẳn nhiên là không phải chỉ có mình tôi, cũng không phải chỉ vài ba trăm, vài ba ngàn hoặc gỉa, vài ba triệu ngưòi đặt ra câu hỏi này, nhưng có lẽ có đến hơn tám mươi triệu người Việt Nam (kể cả các đoàn đảng viên Việt cộng) đã và còn đang đặt câu hỏi này với nhau. Kết quả, sau mấy mươi năm, câu hỏi vẫn khó hiểu như những ngày đầu và kẻ thì thống khoài, người uất hận vì chúng còn sống nhăn răng!

Tại sao lại có chuyện nghịch lý, người đáng còn lại mất, trong khi kẻ đã bị nguyền rủa lại còn tồn vận?

Thật ra, sự việc Việt cộng còn tồn tại không phải là điều nghịch lý, khó hiểu. Trái lại, chúng còn tồn tại đến hôm nay vì những vũ khí bên trong (chủ quan) và vì những phản ứng từ đối tác bên ngoài ( khách quan), tạo ra.

A. Những vũ khí chủ quan.

Tôi không gọi đó là những yếu tố chủ quan, nhưng gọi là vũ khí. Bởi vì, chính nó đã là một loại vũ khí tối độc, tạo nên sức mạnh cho chúng. Một người dám lên võ đài diệu võ dương oai, dù là theo hội mãi võ Sơn Đông, thì chắc cũng có một ít món nghề trong tay. Việt cộng không có ngoại lệ, hơn thế, ngay từ khi mãi võ, năm 1930, chúng đã kiên trì thực hiện hai mục tiêu cơ bản của đảng là: Sử dụng bạo lực khủng bố nhân dân và tưạ đầu vào lòng quan thầy Trung cộng.

1. Sử dụng bạo lực khủng bố:

a. Trường kỳ áp đặt bạo lực khủng bồ trên đời sống thường nhật của nhân dân.

Đây phải được kể là một trong những sách lược quan trọng nhất của đảng cộng sản. Bởi vì, cộng sản biết rất rõ, chúng không có bất cứ một khả năng nào khác để có thể đạt được mục đích là nắm được chính quyền, hơn thế, giữ được quyền lực ngoại trừ một khả năng duy nhât. Đó là khủng bố, giết người để tạo ra bầu không khí sợ hãi bao trùm mọi nơi, mọi lúc mà hưởng lợi.

Thật vậy, ngay khi hội nghị gọi là ra mắt chi bộ đảng cộng sản đầu tiên ở đông dương ở Tân Trào chưa tan thì những tin giết người, khủng bố nhân dân ở khắp nơi đã dồn dập gởi về để mừng và ủng hộ cho cái ngày vô phúc này. Rồi chẳng bao lâu sau đó, trên khắp nẻo đường đất nước của non sông Việt, từ thôn quên đến thị thành, từ miiền đồng bằng cho đến rừng cao núi cả, bất cứ nơi đâu có bóng dáng của bọn đồng chí Việt cộng là nơi ấy có máu chảy đầu rơi vì cái mã tấu của Vẹm ( Việt Minh viết tắt). Lúc đầu, người ta cho còn rằng, đó là những vụ giết chóc lương dân do bọn trộm cướp, bọn côn đồ hại chủ, bọn thổ phỉ sống ngoài vòng pháp luật thực hiện. Nhưng chẳng bao lâu sau mọi người đều biết, đó chính là thủ lệnh được ban ra từ hội nghị Tân Trào do đích thân Hồ chí Minh phát động.

Cuộc khủng bố của Vẹm không dừng lại ở đó. Chúng còn cho cán bộ chém giết thân nhân của ngưòi cầm mã tấu, rồi hô hoán lên là bọn quốc gia, theo thực dân pháp giết người để gây căm thù cho kẻ cầm mã tấu đang giết ngưòi ở đia phương khác thêm hăng say giết ngưòi. Và để nuôi lòng thù hận, con của ngưòi bị chém chết ở làng này đựợc chúng đưa đi giáo huấn để trờ thành kẻ lãnh đạo chém ngưòi ở làng khác.

Kết qủa, hội nghị Tân Trào đã thành công. Thành công không phải chỉ là việc giết người trong bóng tối, nhưng chính là đã khủng bố được toàn diện tinh thần của con người giữa ban ngày. Có thể nhìn trên tổng thể hơn bi quan là: Đất Việt đang đi vào cõi chết và cuộc tàn sát nền luân lý, đạo nghĩa của dân tộc Việt đã bắt đầu từ cái gọi là hội nghị Tân Trào ấy...

Đến năm 1953-1958 cường độ của cuộc khủng bố trên đất bắc đã rực rỡ nở hoa. Dưới sự lành đạo của hai tên Hồ chí Minh, Đặng xuân Khu, toàn thể đất bắc đã rúng động vì cuộc đại đấu tố nhắm vào lớp Trí Phú Địa Hào và văn nghệ sỹ, được che đạy dười chiêu bài cải cách ruộng đất và trăm hoa đua nở. Hầu như không còn một mảnh đất nào trên đất bắc mà không có những dòng máu oan khiên loang chảy. Chả còn bờ lau bụi cỏ, ngõ ngóc của thành phố nào mà không có những cái đầu người dân lăn lóc, và ngùơi thân cũng không dám đến để xin phép…. “ cách mạng” đem về mà chôn và nhà tù thì mọc lên như nắm ở khắp nước.

Riêng miền nam Viêt Nam, chẳng bao lâu sau ngày Tổng Thống Ngô đình Diệm, cột chống miền nam đã bị bọn đầy tớ phản chủ là Minh, Đôn, Đính, Mậu, Xuân, Khiêm, Kim, Lễ… nuốt tiền ngoại giết chết trong cuộc phản loạn ngày 1-11-1963, cuộc chém giết khủng bố tinh thần dân chúng của Việt cộng đã chính thức mở màn.

Tết Mậu Thân ở Huế là một chứng minh rõ ràng nhất cho cái độc ác lang sói của Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng trong chủ đích giết người, khủng bố nhân tâm. Rồi cuộc tù “ cải tạo” áp dụng cho toàn thể miền nam sau 30-4-1974, cũng không ngoài chủ trương này. Đã thế, chế dộ Việt cộng lại đặc biệt chiêu đãi những kẻ “ hiển tài” có tài giết người.

b. Dùng bạo lực để áp đặt sách lược vô văn hóa, tiêu diệt nhân bản vị.

Giáo sư Nguyễn Thiện Tâm, trong “Bản cáo trạng” phổ biến cuối tháng 4-2005, đã mở đầu với lời nhận định của một lão thành cách mạng như sau: “Trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính quyền nào hung bạo, mất hết tính người như chính quyền CS hiện hành. Chủ nghĩa CS là thảm họa lớn nhất của nhân loại, hơn cả thảm họa sóng thần, động đất”. Trong phần kết thúc, giáo sư tái khẳng định: “Bản chất của từ Hồ chí Minh đến Lê Duẩn, Đặng xuân Khu, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt đến Dũng, Kiệt, Khải, Cầm, Trọng, Triết, Mạnh… cũng như đám lãnh đạo CS từ trước đến nay đều vốn thế, tức là bản chất phản bội, bịp bợm, mất nhân tính, thậm chí là tay sai cho ngoại bang mà thôi. Bọn chóp bu Đảng đã hư hỏng tới mức dị ứng với tất cả những gì là trí tuệ, là lẽ phải, là lương tâm, là đạo đức, vì bản chất CS chóp bu là tàn bạo, bịp bợm, tham ác và chúa đểu” (nên đó là điều thống khổ cho toàn dân)

Từ bản chất bất lương trước sau như một của Việt cộng, nên hội nghị Tân Trào đã khai mở ra sách lược khủng bố để áp đặt lên phần đất Việt Nam một nền văn hoá phi luân, phi đạo đức, phi nhân bản, bất nghĩa của cộng sản. Việc áp đặt nền văn hóa phi nhân bản này không những chỉ đặc chuyên trong nội bộ đảng cộng để đào tạo lấy những cán bộ đảng viên không có nhân tình. Chúng còn nhắm tới những mục tiêu xa hơn:
* Học đường:

Sau khi cướp được chính quyền ở miền bắc, học đường là điểm tựa mạnh nhất của tuyên truyền mà bọn Hồ chí Minh nhắm đến. Vì nơi ấy, là nơi để chúng tự tung tự tác, tự do vẽ, cấy vào trong những mái đầu ngây thơ kia những dòng bất nhân, bất nghĩa, vô đạo như hình ảnh của chúng, mà những trẻ em chưa có đủ nhận thức để nhìn ra đâu là sự thật, đâu là xảo trá. Kết qủa, khi trẻ lớn lên, làm những điều ác độc, phi nhân bội nghĩa mà vẫn tưởng rằng đó là công lý, đó là tử tế. Làm tay sai cho Tàu cộng mà lại tưởng là yêu nước vì không bao giờ được học về lịch sử và địa lý đứng đắn. Rồi học đường cũng không được dùng để rẻn luyện về Nhân Lễ Nghĩa Trí Dũng của dân tộc và mở mang trí tuệ nhân bản của con người. Trái lại, đó là nơi mà Việt cộng nhồi nhét cho thế hệ mai sau những bài học bệnh hoạn. Không bao giờ dám nhắc đến những tội trời không tha đất không dung, toàn dân khinh bỉ Hồ chí Minh. Trái lại, chúng đã đầu độc nhiều thế hệ Việt Nam bằng những hình ảnh gỉa tạo của y để trẻ Việt Nam nhầm tưởng rằng Hồ là một người thương dân thương nước, đáng đươc tôn sùng. Rồi chúng thi nhau bám víu vào cái hình ảnh quái đản của Hồ để mà rúc rỉa thịt xương của toàn thể dân tộc ta.

* Xã hội,

Sau 55 năm cướp đươc chính quyền ở ngoài bắc, và sau 34 năm gọi là làm lãnh đạo tại miền nam, thành tích lớn nhất của Việt cộng là: “ngưòi ta phải nói dối nhau mọi nơi, mọi lúc”/ “ Ngưòi ta phải nói dối nhau mà sống. Nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen lâu ngày thành đạo đức, mà đó là nét đạo đức của xã hội Việt cộng.( Trần Quốc Thuận 10/2006)”. Rồi nhân phẩm của con người thì bị chà đạp. Bị chà đạp ngay từ câu mời chào dắt mối của chủ tịch nước: ” vào đi các ông, ở Việt Nam có nhiều gái” đến những cảnh năm ba chục cô gái Việt, phải cổi bỏ quần áo, trần truồng ra trước mặt một ông lão nhược, hay có khi là một kẻ bệnh hoạn, tàn tật, mang nhãn hiệu tàu Đài Loan, hay Đại Hàn soi xét để cưới về làm vợ. Người Việt ta là ai? Là nô lệ hay đầy tớ để bọn nhà nước Việt cộng đưa vào con đường khốn nạn, cay đắng này. Những cảnh mang tính xỉ nhục quốc thể này có bao giờ dân ta phải chịu trươc ngày 30-4-1975 hay không? Khi nhắc đến chuyện này, có nhiều người cho rằng, Nguyễn minh Triết đã làm nghề dắt mối mà nhân phẩm phụ nữ Việt Nam không bị chà đạp mới là điều lạ!
Kế đến, vì bản chất gian ác, xảo trá của từng cá nhấn, Việt cộng đã cấu kết với nhau thành một băng đảng tội phạm có sức mạnh, có ăn chia trong chiêu bài: “Nhân dân làm chủ, cán bộ là đầy tớ ” rồi “đả thực bài phong” trong lúc kháng chiến. Kết qủa, vì lầm tin vào những chiêu bài bịp bợm này mà ngày nay những chủ nhân của đất nước trở thành những kẻ sống trong lầm than, lang thang khắp nơi khắp chốn để đòi đất đòi nhà, riêng những đầy tớ chuyên chính vô sản thì nhà tầng, xe hơi, quyền trên, lệnh dưới, tự do tham nhũng, trộm cướp phủ phê. Và nhờ Việt cộng, xã hội thuần lương của Việt Nam đã bước vào thời kỳ qúa độ đổ đốn như ngày hôm nay. Nhưng khi luân thường đạo đức của xã hội không còn, chế độ Việt cộng càng có cơ hội đứng vững!

2. Tựa đầu vào lòng quan thầy Trung cộng (đời làm nô lệ)

Ngày nay, mọi người đều công nhận rằng, chính sách ngu dân, ác độc vô đạo, bất nhân của Hồ chi Minh đã tàn phá một cách ghê gớm đến nền luân lý đạo đức của dân tộc ta. Nhưng còn tệ hơn thế, sách lược của Hồ chí Minh còn nhắm hủy hoại ý chí tự cường và độc lập của dân tộc ta. Trước hết, hảy khoan nói đến những cái lễ tôi tớ giữa chủ tàu và bọn Hồ chí Minh. Khoan nói tới tất cả những tài liệu mà Trung cộng đã đưa ra vào những lúc gần đây để nói về mối “ giao hảo” môi hở răng lạnh giữa Việt cộng và Trung cộng, Những tài liệu mà mỗi khi thằng “ ranh con Việt cộng” mốn trở mặt là ông chủ Tàu lại tung ra vài trang để cho chúng sợ mà im mồn đi để nghe theo lệnh của quan thày. Khoan hãy đọc những tài liệu về phía Trung cộng. Nhưng hãy đọc những bản văn tôi trích một phần dưới đây thì sẽ thấy được cái bản chất nô lệ của những tên Minh, Khu, Đồng và cái tập đoàn lãnh đạo Việt cộng từ trưóc đến nay xem nó đê hèn, tồi tệ như thế nào.

a) Lời kêu gọi toàn dân của đảng Lao Động, nay là đảng cộng sản Việt Nam vào đầu tháng 8-1951:

"Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc":

ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM THỨ VII

TỔNG THƯ KÝ ÐẢNG LAO ÐỘNG VN

SỐ: 284/ LÐ ÐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC


Hỡi đồng bào thân mến!

Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!

Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?

Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.

Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế -….

Trường Chinh

Tổng thư ký đảng Lao Động.


b) Công hàm của Phạm Văn Đồng

Thủ Tướng Phủ Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà

Kính gửi:

Đồng chí Chu An Lai

Tổng lý Quốc vụ viện

Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa

tại BẮC KINH


Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.

(Ấn ký)

PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa


Và hai hiệp định về biên giới ký vào tháng 12- 1999 và 12-2000 đã giao phần đất liến và phần bìển vùng vịnh bắc Việt cho Tàu cộng để mong quan thày hỗ trợ để chúng có thể củng cố được quyền lực. Tuy nhiên, những bản văn này cho đến hôm nay Việt cộng chưa dám đưa ra ngoài. Với những loại văn tự này thì chúng còn dám nói đến chữ độc lập tự chủ nữa hay sao?

Dĩ nhiên, về phía Trung cộng từ Mao cho đến Đặng, Đào hôm nay, chúng thương gì loại tôi tớ này, nhưng vì mộng bành trưóng, mộng bá quyền, có khi nào chúng quên những bài học còn ghi đậm trong gan phổi từ những tên tuổi lừng lẫy ở phưong nam như Ngô Quyền, Nhị Trưng, Lý thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung… Nay bỗng dưng, không cần đánh mà có đất có kẻ hầu, kẻ bệ kiến thì tại sao lại không quăng ra vài ba cục xương để cho những tên để tử này tranh nhau mà gặm và hết lòng theo chủ?

Tuy nhiên, về phía Việt cộng cũng có những toan tính riêng. Bởi lẽ, ngoài cái gian ác của kẻ biết dùng búa, dùng liềm một cách xảo trá, giống như bà thủ tướng Đức mới tuyên bố là” chính chế độc cộng sản đã tạo nên những kẻ gian dối”, thì chúng chẳng có 1ấy một phưong cách nào khác để mà nắm và giữ được chính quyền. Nên thôi, Hồ, Khu, Đồng sao thì Dũng, Mạnh, Triết, Trọng ngày nay cũng vậy, cứ tựa đầu vào lòng Trung cộng lấy hơi để mà rúc rỉa ấm thân và thực hiện khẩu hiệu: Đảng cộng sản Việt Nam tuyệt đối trung thành với nhân dân Tàu, còn hơn là chống lệnh, không khai thác Bauxite. Bởi lẽ, chúng không thiếu gì cách thả mồi bắt bóng, đưa đứa khác lên làm lãnh đạo. Khi ấy, sôi hỏng mà bỏng cũng không!...

Tóm lại, sức mạnh của Việt cộng đặt trên hai diểm: Kiên trì dùng bạo lực khủng bố nhân dân và hết lòng phục vụ cho chủ nhâ tàu cộng.

Bảo Giang

Kỳ tới
B. Những nguyên do khách quan.
Chuyện dài XHCN: Loạn thu phí và nạn “xin đểu” của bộ máy công quyền
Lê Minh
Bộ máy hành chánh của một quốc gia sống được là nhờ vào đồng tiền đóng thuế của người dân. Tùy theo từng quốc gia, có những mức thuế cao thấp khác nhau với nguyên tắc thu nhập càng cao thì đóng càng nhiều. Nhưng nói chung thì người dân chỉ phải đóng thuế, ngoài ra không phải đóng những khoản linh tinh khác. Thế nhưng, ở Việt Nam từ bấy lâu nay đã có “loạn thu phí”, chính quyền các cấp thu loạn cào cào, khiến người nông dân cũng như người dân thành thị khốn đốn. Tại các trường học không những cũng có loạn thu phí mà còn có thêm thu ... quỹ ào ào, với những khoản thu vu vơ, phi lý mà cả giáo viên và học sinh đều phải gánh chịu.
Loạn thu phí & quỹ ở trường học
Bây giờ đã là tháng 5, là tháng cuối cùng của niên học, mọi chuyện thu phí, ký quỹ,.. gần như tạm lắng đọng sau 9 tháng loạn thu. Nhưng sự lo lắng tiếp tục trở lại khi vài tháng nữa đây học sinh phải trở lại trường. Đúng vậy, hễ cứ vào mỗi đầu năm học là các bậc phụ huynh lại một phen đau đầu với nhiều khoản thu, đặc biệt là những khoản thu “tự nguyện”.
Lấy ví dụ tại một trường ở Sài Gòn, ngay trước ngày nhập học năm học vừa rồi phụ huynh đã phải đóng sơ sơ một khoản tiền 1,25 triệu đồng chỉ cho 3 loại quỹ: Quỹ trang bị, quỹ lớp va quỹ hội phụ huynh.

Một phụ huynh ở Quảng Ninh đã kể lại trên VietNamNet rằng chị có một đứa con 5 tuổi học mẫu giáo, mà ngay ngày đầu năm đã phải đóng hơn 1 triệu đồng cho các loại phí không rõ ràng như: Tiền xã hội hóa công tác giáo dục (mà giáo viên giải thích là tiền xây nhà vệ sinh, trong khi đã đóng tiền xây dựng trường); tiền học môn năng khiếu, tiền mua sách vở, đồ chơi; tiền mua chăn, gối; tiền học phí; tiền phụ phí, tiền quỹ trường, quỹ lớp, tổ chức họp phụ huynh ..., đó là chưa kể các khoản “thông thường” phải đóng như tiền đồng phục, học phí, sách giáo khoa. Ngoài những khoản có thể kể tên vanh vách, còn có những khoản vì lý do tế nhị nên khó lòng nêu ra hết được vì đó là những khoản đóng góp ... “tự nguyện”.
Vẫn biết nhiều khoản tiền phi lý nhưng phụ huynh vẫn phải đóng vì sợ con em mình bị nhà trường trù dập, kỳ thị.
Một tỉnh nghèo như Thanh Hóa mà cũng không là ngoại lệ, vì theo lời kể của phụ huynh một học sinh lớp 4 thì ngay ngày tựu trường của niên học năm nay cặp vợ chồng này đã phải đóng góp các khoản sau:
1. Tiền xây dựng trường: $300,000 đồng
2. Tiền hội phụ huynh nhà trường: $50,000 đồng
3. Tiền chi hội phụ huynh lớp (!): $40,000 đồng
4. Tiền bán trú: $40,000 đồng/tháng
5. Tiền ăn: $300,000 đồng/tháng
6. Tiền điện, nước: $8,000 đồng/tháng x 9 tháng.
7. Tiền vệ sinh: $18,000 đồng/năm
8. Tiền sử dụng thiết bị tin học(?): $15,000 đồng/năm
Thử hỏi, với những số tiền phải đóng góp như vậy, thì một cặp vợ chồng công chức làm sao kham nổi chuyện học hành cho 2 đứa con, chưa nói chi đến nông dân hoặc những người có thu nhập thấp.

Copy một bản thông báo các khoản thu đầu năm học 2008/2009 của một trường THCS (VNN)
Tiền thu thì nhiều mà nào có chi tiêu đúng chỗ, thế cho nên các bậc phụ huynh mới phán một câu gỏn lọn: “Thu công khai, Chi mập mờ”.
Mới đây ông hiệu trưởng của một trường trung học ở Quảng Trị đã xà xẻo tiền đóng góp của học sinh bằng cách chia chác bỏ túi các khoản đóng góp và chi tiêu không rõ ràng nhiều khoản. Ông hiệu trưởng này đã chỉ đạo hủy hồ sơ sổ sách để phi tang tất cả. Sau khi bị phanh phui, ông ta cho biết chỉ muốn “vay mượn thôi và đã “tự giác” nộp lại 70 triệu đồng, trong khi những khoản còn lại thì ... làm lơ. Mặc dầu sự việc rõ ràng như ban ngày nhưng cho đến nay ông này vẫn phây phây, không bị mất chức.
Nỗi khổ của giới thầy cô
Không riêng gì học sinh và bậc phụ huynh khốn đốn, mà giới giáo chức cũng khổ sở không kém gì.
Gần đây các trường cũng đã xuất hiện nhiều kiểu loạn thu đối với giáo viên. Có nhiều khoản thu rất phi lý nhưng các giáo viên vẫn phải nộp vì sợ bị “để ý” hoặc bị “đì”. Có một khoản phí đang trở nên phổ thông là “phí tăng lương”. Tùy theo trường, tùy theo lương ngạch mà khoản phí này giao động trong khoảng từ 50 - 100 ngàn đồng. Loại phí này được dùng để trả thù lao, hay nói chính xác hơn là để “bồi dưỡng” cho ban xét duyệt nâng bậc lương và tiền công cho các nhân viên văn phòng làm và đi nộp hồ sơ. Điều phi lý ở chỗ là các thành viên trong ban xét duyệt cũng là công chức, đã có lương hẳn hòi, kể cả các giờ làm thêm.
Có một số nơi lại đẻ ra loại phí lỳ lạ là “phí phần trăm”. Đây là một số tiền không nhỏ, được trích phần trăm từ tiền kiếm được của giáo viên qua việc dạy thêm giờ, tiền thừa giờ.
Có nơi còn có một loại phí phi lý khác nữa là phí “hội dâu rể”. Đây là loại phí để chi tiêu cho các tiệc chung vui cuối năm giữa các giáo chức với nhau.
Đó là chưa kể đến các loại phí “phổ thông” do nhà nước và Mặt Trận TQ phát động như Quỹ “vì người nghèo”, Quỹ “nạn nhân chất độc da Cam”, Quỹ “khuyến học”. Ngoài ra còn vô số các loại quỹ vớ vẩn như quỹ “Công đoàn nghèo”, quỹ “xây dựng nhà công vụ”,v.v...
Mặc dầu đồng lương đã eo hẹp không đủ sống, nhưng tất cả những loại quỹ này ngốn hết hơn 10% lương của người giáo chức. Cho nên mới nói, thật là lạ nếu không có nạn dạy thêm, ép buộc học sinh học thêm ngoài giờ, ăn hối lộ điểm, đi quà cáp cho thầy cô các ngày lễ,...
Người nông dân và hàng trăm khoản phí, quỹ
Hình ảnh người nông dân Việt Nam từ thuở xưa, lúc nào cũng lam lũ qua các triều đại, chế độ, nhưng chưa bao giờ người nông dân VN lại khổ như thời CS bởi sưu cao thuế nặng, lại phải đóng góp nhiều khoản thu liên miên. Cách nay gần 2 năm, sau khi nhận được nhiều lời ta thán của người nông dân, Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn (NN & PTNT) đã rà xoát lại thì cả nước mới biết là người nông dân VN phải chịu đến 122 khoản thuế và các khoản đóng góp khác nhau.

Người nông dân “bán mặt cho đất, bán lưng cho Trời”
Sở dĩ người nông dân phải đóng góp quá nhiều khoản phí như vậy vì ngoài các khoản thuế chính thức mà họ phải nộp, thì họ còn phải gồng mình đóng góp các khoản phí do các ban ngành, chính quyền các cấp từ tỉnh, xuống đến huyện, xã ấp ban hành một cách tuỳ tiện.
Một địa phương nghèo như xã Hưng Lam, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An, mà cũng phải đóng góp đến 2 triệu cho mỗi gia đình, thì những địa phương “khá” hơn chắn chắn phải đóng góp nhiều hơn bội phần.
Những loại phí “phổ thông” mà người nông dân phải nộp có thể được liệt kê như Khai sinh, chứng từ, xác nhận lý lịch, đăng ký hộ khẩu, chứng thực hợp đồng, cấp giấy tạm trú, trích lục bản đồ,... Ngoài ra còn có nhiều loại phí phi lý khác như thủy lợi phí (tu bổ kênh mương), quỹ an ninh quốc phòng, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ kinh tế mới, quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng,...
Tính trung bình các khoản chi phí này ngốn hết từ 5 - 10% thu nhập của người nông dân, trong khi họ phải quần quật trên cánh đồng, “bán mặt cho đất, bán lưng cho Trời” mà cũng chỉ có được cái ăn, cái mặc thì lấy đâu ra để đóng các khoản phí này.
Vì phải oằn lưng đóng góp đủ kiểu, nên cuộc sống của người nông dân đã cực khổ lại càng cực khổ hơn, trong khi kích thước những cái bụng phệ của các ông Vua quan nhà nước càng lớn dần, và làm gia tăng số lượng tầng lớp bóc lột trong xã hội.
Người dân cũng oằn lưng với các loại phí và ... xin đểu theo kiểu “tự nguyện”
Người dân sinh sống ở các địa phương khác nhau cũng phải chịu nhiều khoản đóng góp, nào là Quỹ “vì người nghèo”, quỹ khuyến học, quỹ Bảo trợ trẻ em bất hạnh (hay còn gọi là quỹ tình thương), quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ chăm sóc trẻ em, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ quốc phòng an ninh, hội phí chữ thập đỏ,…
Có những địa phương “khá”, chính quyền lại ấn định luôn mức phí tự nguyện hẳn hòi, chẳng hạn ở Quận 3, Sài Gòn, UBND phường 6 đã “vận động” người dân phải “tự nguyện” đóng các mức như: quỹ quốc phòng an ninh $60,000 đồng/gia đình, 200 - $500,000 đồng/năm đối với cơ quan, đơn vị, cơ sở kinh doanh (tùy quy mô). Trong khi mỗi tổ dân phố được ấn chỉ tiêu vận động tối thiểu 300,000 đồng cho quỹ bảo trợ trẻ em, 500,000 đồng cho quỹ xóa đói giảm nghèo...


Các văn bản giao chỉ tiêu thu tiền trong dân của UBND phường 10 (Q.Tân Bình)
và UBND phường 6 (Q.3, TP. Sài Gòn)
Mới đây ở Long An, UBND huyện Tân Trụ đã bắt dân phải “tự nguyện” hiến trên 22 tỷ đồng để mở rộng, nâng cấp 2.3km tỉnh lộ đi qua thị trấn Tân Trụ. 166 gia đình sống hai bên đoạn đường này phải “tự nguyện” hiến đất, nếu không thì sẽ bị giải tỏa trắng.
Như trường hợp của ông Nguyễn Văn E được yêu cầu hiến 250m2 đất mặt tiền để làm đường, trong khi ông Nguyễn Văn Ngọc ở gần đó cũng có số phận tương tự, được yêu cầu phải hiến không 215m2 trên tổng số 800m2 đất của gia đình.
Bí thư huyện “quỷ” huyện Tân Trụ Nguyễn Thanh Chánh xác đinh rằng “làm như thế là đúng theo tinh thần quyết định 883 ngày 1-4-2004 của tỉnh: Nếu vận động mà dân không tự nguyện hiến đất thì phải giải tỏa trắng”.
Vì lo sợ bị “giải tỏa trắng” nên nhiều người đã vội ký tên vào danh sách “tự nguyện” hiến đất. Tuy nhiên có một số người dân đã không quên thòng thêm câu “Nếu sau này có bồi thường thì phải bồi thường cho tôi”.
Thì ra là lệnh của tỉnh bắt huyện “xin đểu” bằng chiêu bài “tự nguyện” hiến dâng, nhưng nếu dân không “tự nguyện” thì ra tay ... cướp sạch! Cái trò “tự nguyện” hiến đất kiểu này sao mà quá giống với các bài bản đã xảy ra trước đây ở miền Bắc sau 1954 và ở miền Nam sau 1975.
Lê Minh
Sydney, 21/05/2009



Trung Quốc tuốt gươm, Việt Nam phải làm gì?
Việt Hoàng


Trung Quốc sẽ tuốt gươm?

Quan sát những hành xử gần đây của chính quyền Trung Quốc chúng ta có lý do để tin rằng việc Trung Quốc “tuốt gươm” là chuyện sớm muộn. Xa một chút về trước là việc Trung Quốc tấn công các tàu đánh cá của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam khi họ đang đánh bắt cá ở vịnh Bắc Bộ. Rồi việc Trung Quốc gây sức ép buộc các công ty thăm dò dầu khí với Việt Nam phải rút khỏi khu vực biển Đông như BP, Exxon Mobil. Gần đây là việc các tàu chiến Trung Quốc “gây hấn” với tàu Mỹ hai lần (vào tháng 3 và tháng 4 năm 2009), Trung Quốc đã mạnh mẽ phản đối việc Phi-lip-pin và Việt Nam tuyên bố chủ quyền của mình trên các hòn đảo Trường Sa. Mới đây nhất là việc Trung Quốc gửi công hàm yêu cầu Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của LHQ "không xem xét hồ sơ chung mà Malaysia và Việt Nam đã nộp về thềm lục địa mở rộng". Cũng mới đây TQ đã gây sức ép lên ngân hàng Châu Á để ngăn cản một khoản vay của Ấn Độ, điều này đã khiến Ấn Độ nổi giận.

Vì sao Trung Quốc phải tuốt gươm?

Hơn 20 năm qua Trung Quốc đã có những phát triển vượt bậc về kinh tế, với chính sách thắt lưng buộc bụng, chính quyền TQ đã thu về cho ngân sách một khoản tiền khổng lồ gần 2000 tỉ đô la. TQ đang nổi lên như là một cường quốc kinh tế và mong muốn của chính quyền là TQ sẽ trở thành một cực của thế giới (cùng với Mỹ và Nga). Do kinh tế thế giới gặp khủng hoảng TQ sẵn sàng mở hầu bao để thu phục hay mua chuộc các nước bé hơn và để thể hiện ưu thế vượt trội của mình.

Các nước cộng sản và độc tài luôn cổ vũ cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, TQ cũng vậy và giờ đây một bộ phận dân chúng TQ bắt đầu đặt câu hỏi về sự “lớn mạnh” và “sức mạnh” của TQ. Một cuốn sách mới xuất bản đã được đón nhận nồng nhiệt ở TQ mới đây là cuốn sách có tựa đề Trung Quốc không vui. Chỉ cần đọc tựa đề của cuốn sách là ta có thể hiểu được cuốn sách muốn nói gì. Người dân TQ cho rằng chính quyền TQ đã quá “mềm yếu” trong các vấn đề quốc tế và TQ cần có thái độ mạnh mẽ hơn cho phù hợp với vị thế của một Trung Quốc hùng mạnh.

Cho dù chính quyền TQ chưa muốn thể hiện sức mạnh của mình vì hiểu rõ rằng TQ phải chờ đợi thêm một thời gian nữa, thế nhưng người dân TQ thì không hiểu (hoặc không muốn hiểu) điều đó, họ cũng không đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Sức ép của dân chúng lên chính quyền ngày một lớn khiến chính phủ TQ phải có những hành động cứng rắn hơn trong các vấn đề quốc tế. Nếu kinh tế TQ vẫn không hồi phục và gặp khó khăn thì chính quyền TQ sẽ tuốt gươm, đó là điều hiển nhiên. Đây là chiến thuật “gây hấn với bên ngoài để ổn định bên trong”.

Bản đồ vùng biển đang tranh chấp. Đường chấm đỏ là lãnh hải mà Trung Quốc cho là của họ. Đường chấm xanh là vùng Đặc quyền Kinh tế kéo dài đến 200 hải lý theo quy định của UNCLOS, và những chấm màu xám là những quần đảo hiện đang còn tranh chấp. Nguồn: UNCLOS and CIA

Việt Nam sẽ là dê tế thần?

Việc TQ gây hấn với tàu của Hoa Kỳ trên vùng biển quốc tế đã phát đi một tín hiệu mạnh mẽ từ TQ rằng họ sẽ không kiêng nể bất cứ ai kể cả Hoa Kỳ. Đối với hàng xóm của TQ thì hầu như mọi việc đều êm ả, chỉ có nổi lên cái tên Việt Nam gắn liền với chủ quyền ở Biển Đông khiến chúng ta lo ngại. Trung Quốc vẫn khăng khăng khẳng định chủ quyền trên Biển Đông, và khi các biện pháp răn đe hay doạ dẫm không có kết quả thì việc sử dụng sức mạnh quân sự là điều TQ có thể sẽ làm và do VN là nước yếu nhất trong khu vực và đang làm chủ các đảo lớn trên Trường Sa nên có thể sẽ là mục tiêu của TQ. Việc chính quyền TQ lợi dụng sự khó khăn kinh tế của Việt Nam và sự phụ thuộc chính trị của đảng cộng sản Việt Nam vào TQ để ép chính quyền Việt Nam cho phép TQ đem người vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên nhằm mục đích đặt một cái vòng kim cô lên đầu Việt Nam để biến Việt Nam thành chư hầu và là phiên dậu của TQ ở phía nam. Nếu chính quyền VN vì sức ép của dân chúng mà dừng dự án này lại thì e rằng TQ cũng không để yên cho chính quyền VN.

Vì vậy cho dù dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên bị các tầng lớp nhân dân phản đối quyết liệt nhưng chúng ta đừng mong rằng chính quyền Việt Nam sẽ dừng dự án này lại. Chính quyền Việt Nam không thể chống lại ý muốn của TQ. Dự án này sẽ tiếp tục được thực hiện. Mọi sự đã an bài. Ngay cả việc đơn giản nhất (mà giả sử chính quyền muốn làm) là cho dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối TQ để lấy cớ từ chối tiếp tục dự án này cũng không thể được. Chính quyền VN xưa này vẫn hành xử theo ý mình là chính, chính quyền VN chưa bao giờ biết hỏi ý kiến nhân dân VN trong bất cứ vấn đề gì dù lớn hay nhỏ. Việt Nam đã ký kết và đã nhận tiền của TQ giờ muốn thôi dự án này cũng không thể được, TQ sẽ “gí gươm vào cổ” chính quyền VN ngay.

Chắc chắn chúng ta phải đồng ý (dù không muốn) với tác giả La Thành qua bài viết “Bauxite Tây Nguyên: Phép thử phản xạ tự vệ của quốc gia Việt Nam”. Tác giả không hề kích động hay quá cường điệu khi cho rằng “Bauxite Tây Nguyên hoàn toàn có thể là điểm khởi đầu cho một sự tan rã, không chỉ ở mức thể chế chính trị mà ở tầm quốc gia - dân tộc. Hoặc nó đang là phép thử đối với phản xạ tự vệ của dân tộc và quốc gia Việt”. Chính mảnh đất Tây Nguyên này là nơi đã kết thúc 400 năm của vương triều nhà Nguyễn và hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp với sự chấm dứt cái gọi là “Hoàng Triều Cương Thổ” của Quốc trưởng Bảo Đại. Cũng chính tại mảnh đất này đã chứng kiến sự tháo chạy của quân đội Việt Nam Cộng Hoà khiến Miền Nam Việt Nam sụp đổ bi thảm vào năm 1975. Có lẽ trên mảnh đất linh thiêng này lịch sử đang lặp lại? Cầu mong sao cho nó chỉ là “điểm khởi đầu cho một sự tan rã ở mức thể chế chính trị” chứ không phải là “điểm khởi đầu cho một sự tan rã ở tầm quốc gia-dân tộc”.

Việt Nam phải làm gì?

Việt Nam đang lâm nguy trước sức ép của người “anh em Trung Quốc”. Tuy nhiên sẽ là điên rồ nếu Việt Nam có ý định tuyên chiến với Trung Quốc. Xét một cách toàn diện thì Việt Nam không bao giờ là đối thủ của Trung Quốc.

Chúng ta mong muốn và quyết tâm sống hoà bình bên cạnh Trung Quốc. Để làm được điều đó chúng ta phải chứng minh được rằng dân tộc Việt Nam là một khối đoàn kết, chúng ta là một dân tộc có ý chí, có trách nhiệm và có tinh thần ái quốc. Để chứng minh điều đó thì chỉ có một cách duy nhất để làm là “chính quyền Việt Nam và nhân dân Việt Nam là một, chính quyền Việt Nam là do người dân Việt Nam lựa chọn để thực thi các ý chí của người dân Việt Nam”.

Chính quyền TQ sẽ đắn đo cân nhắc thiệt hơn khi “đối đầu” với cả một dân tộc có truyền thống giữ nước hơn là với 15 vị trong Bộ chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam đã tự mình tách rời ra khỏi nhân dân Việt Nam sau khi giành được chính quyền và thống nhất đất nước. “Ý đảng” không còn là “lòng dân”.

Muốn “chính quyền Việt Nam với nhân dân Việt Nam là một” thì Việt Nam phải có dân chủ, người dân Việt Nam phải có tất cả các quyền làm người như đã ghi trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam không thể độc quyền muốn làm gì thì làm mà cần phải tranh cử và phải dành chiến thắng trong các cuộc bầu cử tự do, công bằng. Sự chính danh của nhà cầm quyền phải thông qua hòm phiếu, qua sự tín nhiệm của người dân chứ không thể bằng dùi cui, nhà tù và sự khủng bố.

Chỉ có dân chủ và sự hậu thuẫn của người dân Việt Nam mới giúp được chính quyền Việt Nam trong việc “thương thuyết” với các nước trong mọi vấn đề, nhất là với Trung Quốc. Thông điệp khi đó thật dễ dàng và có sức mạnh: “chính phủ Việt Nam phải làm theo những gì mà người dân Việt Nam mong muốn và yêu cầu”.

Chính quyền cộng sản bây giờ không đủ chính danh và tư cách để nói những câu như vậy.

Khi Việt Nam có dân chủ, mọi tiếng nói của người dân Việt Nam được lắng nghe thì chính phủ sẽ nhanh chóng biết được phải làm gì để có lợi nhất cho quốc gia và dân tộc. Khi có đồng thuận của dân chúng thì không ai bắt nạt được chúng ta.

Một nước Việt Nam dân chủ sẽ khiến Trung Quốc phải e dè và kính nể thay vì thái độ trịnh thượng và coi thường như bây giờ.

Đảng cộng sản Việt Nam không thể tự thay đổi được mà phải có một cuộc cách mạng thật sự xảy ra, tốt nhất là các cuộc “cách mạng hoà bình”. Chúng ta chia sẻ và đồng tình với nhận định của một trí thức Việt Nam rằng “Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Chính quyền nữa, cái này ngoài khả năng của họ rồi. Nó tuỳ thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi. Còn thay đổi như thế nào thì lại tuỳ thuộc vào cái lực lượng này có muốn làm điều tốt cho người dân hay không?” (Blog Psonkhanh).

Việt Nam đang trải qua những giai đoạn khó khăn và thách thức. Đây cũng là lúc để các “lực lượng thay đổi” nhanh chóng “hành động”. Nếu không thì lo lắng của ông La Thành về sự tan rã của quốc gia-dân tộc Việt sẽ thành hiện thực.
Việt Hoàng
(Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)





Việt Nam giữa các cường quốc
Lê Quốc Quân

Hai mươi năm hòa bình hình thức

Nước ta coi như hòa bình từ 1989. Đó là lúc những đoàn xe tăng cuối cùng của Việt Nam do Liên Xô sản xuất lũ lượt rời khỏi đất nước chùa Tháp sau một thời gian chiếm đóng dài hơn thời gian quân đội Mỹ tham chiến ở Miền Nam Việt Nam.

Bắt đầu hòa bình là lúc Đảng cộng sản đối mặt với sự khủng hoảng đến tột độ. Viễn cảnh tan rã của đế chế cộng sản lớn nhất hành tinh áp lực mạnh mẽ lên toàn bộ Việt Nam. Khi đó quan hệ với Trung Quốc và Mỹ vẫn căng như dây đàn. Trong Bộ chính trị, kẻ thì hồi hộp người thì lo sợ.

Thế nhưng, những người cộng sản vẫn ngoan cố một cách khéo léo, hạ bệ Trần Xuân Bách, tiếp tục cầm lái con thuyền Việt Nam thêm 20 năm nữa sau khi người anh cả là Liên Xô tan rã.

Nguồn cảm hứng cho việc tiếp tục độc tài cầm lái là sự đi lên đầy bành trướng của một đàn anh cộng sản khác “Núi liền núi, sông liền sông”.

Khá lên, người đàn anh này thè “lưỡi bò” liếm sạch “mặt tiền” thằng em.

Lịch sử luôn có những khúc quanh của nó ! Hai mươi năm, không dài so với một đời người, ngắn so với một chế độ và chỉ là một tiếng thở dài của tự tình dân tộc Việt Nam.

Trong chiến tranh, máu của các chiến binh Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc đã thấm vào đất Việt Nam ta nên bây giờ đây ta sống ở hiện tại, để hoạch định chiến lược trong tương lai, ta phải hiểu quá khứ, hiểu rằng dân tộc chúng ta bị xô đẩy quẩn quanh giữa các cường quốc.

Qúa khứ chiến tranh và hội đàm mua bán!

Qúa khứ của Việt Nam chúng ta là một quá khứ chiến tranh. Suốt gần 500 năm qua, kể từ thời Hậu Lê năm 1527 và nhà Mạc cướp ngôi năm 1540, đất nước chúng ta chiến tranh liên miên.

Đầu tiên là cuộc chiến Nam Bắc triều, đến Trịnh Nguyễn phân ranh. Hết phân ranh là Tây sơn-Nhà Nguyễn. Rồi chiến tranh chống Pháp, hết pháp là Mỹ, sau chia cắt là cuộc chiến Campuchia, kết thúc bằng một cuộc chiến biên giới với Trung Quốc vào năm 1979.

Kẻ đô hộ chúng ta hơn 1000 năm trước lại là kẻ thù sau cùng với chúng ta - những người đồng chí Cộng sản. Cuộc vãi đạn dã man vào hải quân của Việt Nam ở Trường sa năm 1988 là bằng chứng tươi mới nhất về chiến tranh với Trung Cộng.

Trước đó, Trung Quốc và Mỹ đã một lần mặc cả về Việt Nam. Ngày 21/2/1972 - Nixon và Mao gặp nhau mừng rỡ, nâng ly rượu Mao Đài sóng sánh, quân nhạc cử bài: “Hoa kỳ mỹ lệ”. Họ tuyên bố: “Cầu hữu nghị Mỹ Trung đã được bắc, tương lại thế giới giờ nằm trong tay hai nước chúng ta”.

Sau hội đàm, Trung Quốc chiêu đãi trọng thể với hơn 800 quan khách . Ngày 27 tháng 2 năm 1972 Tuyên cáo chung Trung – Mỹ được ký tại Thượng Hải. Sau đó 11 tháng, Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Mỹ bỏ Nam Việt Nam, Trung Quốc bỏ bắc Việt. Hai thằng lớn ngoảnh mặt đi.

Nhưng Liên xô thì không. Họ say mê “mở mang nước Chúa”, tiến đánh sang tận Afganistan. Họ tiếp tục viện trợ, giúp đỡ Bắc Việt Nam thống nhất một cách chân thành trong niềm tin tôn giáo cộng sản.

Sau đó, họ tiếp tục gửi quân và chuyển vũ khí để đánh Khơ Me đỏ và xuống cả vùng Đông Nam Á (nếu có thể). Nhưng Trung Quốc biết rõ âm mưu. Cùng là Cộng sản, nhưng Khơ Me Cộng sản chống Xô viết cộng sản nên Trung Quốc coi họ là lực lượng thích hợp để chống Việt Nam.

Khơ Me đỏ tuyên bố thẳng thừng chỉ có chủ nghĩa cộng sản của mình mới thực còn tất cả là Cộng sản đểu. Để rồi những người theo chủ thuyết cộng sản lại giã nhau tóe lửa. Mìn nổ, máu đỏ ngập những bàn chân “tình nguyện quân” Việt Nam.

Nhưng khi Liên xô tan rã, đẩy Việt Nam đến sự hoang mang. Họ tự phải hỏi Chủ nghĩa cộng sản là cái gì đây và là ai đây. Là máu, đấu tố và chiến tranh ?. Là Nga, Trung Quốc, Mỹ hay Nhật..?.

Thực tế là không có ! Chỉ có quyền lợi quốc gia và tổ quốc trên hết.

Ảnh hưởng của Mỹ - Trung hôm nay

Hai mươi năm sau ngày hòa bình hình thức, dù cho người ta dựng cột mốc, đăng ký lãnh hải hay xây vành đai giới tuyến thì cũng không ngăn nổi sức tấn công của biên giới mềm trong xu hướng toàn cầu hóa như vũ bão hiện nay.

Nạn nhân mãn ở Trung Quốc buộc họ phải mở rộng không gian sống xuống phía Nam và thế mạnh của một cường quốc đòi buộc người Mỹ phải hiện diện nhiều nơi ngoài Mỹ.

Đô la với hình Washington tràn ngập các các gia đình Việt Nam. Thậm chí người dân có thể dùng Đô La mua hàng gia dụng giá rẻ của Trung Quốc ở chợ.

Ở Hà Nội, Sài Gòn Trung tâm dạy học tiếng Trung đông nghẹt người, những giáo viên trẻ viết chữ Hán giản lược nhanh đến mức khó tả, dạy những bài hát tiếng Trung nói về tình yêu nồng nàn theo điệu hip hop, rất đi vào tâm hồn lớp trẻ.

Hàng hóa mang hình chữ Tàu ngập tràn từ ngõ nhỏ đến siêu thị lớn. Giọng oang oang của người Trung Quốc vang khắp nơi, len lỏi lên tận vùng tây nguyên nơi họ vừa tìm được một nơi mà chắc chắn có thể bắt rễ để sống lâu dài.

Những ngành nghề chất lượng lao động cao như tư vấn, ngân hàng, tài chính, đào tạo, IT ở Việt Nam đã, đang và sẽ dần dần do các doanh nghiệp Mỹ hoặc có nguồn vốn từ Mỹ xâm nhập và thâu tóm.

Những ngành nghề đơn giản như gia công hàng hóa, mua bán máy nông cụ, hàng hóa giá rẻ, vật dụng tiêu dùng phục vụ người thu nhập thấp ở Việt Nam sẽ dần dần do các Công ty Trung Quốc làm chủ.

Hôm nay ngôi nhà Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có cơ hội đón hàng chục ngàn thanh niên Việt Nam sang học tập. Hơn hai triệu người Việt tiếp tục gửi tiền về cho gia đình thường dân ở Việt Nam, nhiều triệu USD của các quan chức đang chảy ngược lại.

Hôm nay Việt Nam là đích đến của các nông dân Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh lân cận, họ mở nhà hàng, tích cóp từng đồng, mở mang dây chuyền và hỗ trợ phát triển cho cộng đồng riêng họ ở Việt Nam. Còn quan chức Việt Nam mang cả tài nguyên quốc gia làm quà triều cống thường niên.

Chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước!

Buồn vì chịu ảnh hưởng của các nước lớn nhưng chúng ta không được xúc động một cách thiếu logic. Toàn cầu hóa là tất yếu và việc dịch chuyển lao động quốc tế là chuyện bình thường. Quan trọng là chúng ta phải mạnh lên.

Tôi đã từng đề cập về 8 chữ : “Liên Mỹ - Hòa Hoa- Dân tộc –Dân chủ”. Theo tôi, đó chính là kế sách hay nhất cho Việt Nam trong thế kỷ này, cả đối nội và đối ngoại. Bắt đầu từ trong ra ngoài, từ việc việc dân chủ hóa đất nước.

Chỉ có tự do, dân chủ mới thực sự giải phóng chúng ta, mới đem đến cho Việt Nam một sức sống mới, liên kết được sức mạnh người Việt, quyến rũ được người Mỹ về những giá trị mà họ đang lớn tiếng bảo vệ.

Chỉ có dân chủ, tự do báo chí, lắng nghe ý kiến của Nhân dân mới có đối sách thích hợp với Trung Quốc, mới không để những nhà lãnh đạo phản động đi đêm ký tắt những Hiệp ước quan trọng rồi loay hoay như gà mắc tóc.

Chỉ có dân chủ hóa, những người Việt Nam trên khắp thế giới mới tự tin rằng Việt Nam là trên hết chứ không phải là “chủ nghĩa Cộng sản” hay CNXH, không còn “thế lực thù địch”. Họ mới cùng chung tay xây dựng một Việt Nam mới trong thái bình và thịnh trị.

Chỉ có thực thi dân chủ dựa trên một ý thức dân tộc thì Việt Nam mới thực sự là nơi an toàn, thu hút chất xám, phát triển toàn diện, trở thành người tình của thế giới, người yêu của các cường quốc trong tà áo dài thướt tha.

Khi đó chúng ta mới thực sự mạnh lên. Nhân dân không phải bỏ ra 1,8 tỷ USD cho 6 tàu ngầm hạng Kilo, 500 triệu USD cho 12 “con” SU-30MK và còn nhiều hơn thế, để mua tàu ngầm, máy bay, vũ trang quân đội, chuẩn bị chiến tranh, gồng mình như con choi choi giữa những cường quốc hiếu chiến mạnh hơn hàng trăm lần.

Lê Quốc Quân


CS HÀ NỘI Bị ‘Quây’ VỀ Nhân Quyền
Vi Anh

Theo dõi phiên họp Kiểm Điểm Định Kỳ Việc Thực Hiện Quyền Con Người Ở Việt Nam, trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, cảm nghĩ sau cùng của người Việt là cười mỉa mai, nói theo kiểu phó thường dân Nam bộ: CS Hà nội 'làm thì láo, báo cáo thì hay', nên bị 'lật tẩy, bị 'quây' tơi tả. Nhưng đừng vội mừng, để coi rồi CS Hà nội chẳng có sửa đổi gì đâu..

CS Hà nội đâu có dễ gì qua măït được Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, Aân Xá Quốc Tế, Bảo Vệ Nhân Quyền Thế Giới đã nhiều lần tố cáo chế độ độc tài đảng trị toàn diện này là sát thủ Internet, bóp nghẹt blog, vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí. Uỷ Hội Tự do Tôn Giáo Quốc Tế của Mỹ tham vấn cho Quốc Hội Mỹ đã nhiều lần đề nghị Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa chế độ CS Hà nội danh sách CPC tức các nước cần quan tân đăïc biệt vì vi phạm tư do tôn giáo. Bộ Ngoại Giao Mỹ trong bản tường trình về tình trạng nhân quyền trên thế giới trong đó tình trạng nhân quyền VN, nhận định tình trạng nhân quyền trong chế độ CS Hà nội "chưa thỏa mãn".

Nếu CS Hà nội tôn trọng nhân quyền, nếu tình trạng nhân quyền trong chế độ CS Hà nội tốt như báo cáo, tại sao CS Hà nội giấu bản báo cáo như bí mật quốc gia. Tại sao CS Hà nội chỉ cho đăng trên trang web của Bộ Ngoại Giao, mà không cho đăng trên 700 tờ báo trong nước. Tại sao CS Hà nội đã thò tay ký vào công ước và cam kết thực thi Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc mà tới nay gần 30 năm, vẫn chưa lần nào công bố cho toàn dân biết nội dung của nó ra sao?

Công luận biết rất nhiều, rất rành, tin tức CS Hà nội hầu như hàng ngày nhan nhản, nạn nhân nhân chứng sống, chứng lý tội phạm CS Hà nội chống nhân quyền đã làm -- sờ sờ ra đó; cả thế giới đều biết. Đảng CS độc tài đảng trị toàn diện, toàn quyền và độc quyền -- thực tế, thực sự -- rõ rệt là chánh phạm sát thủ nhân quyền VN. Nhưng suốt từ đầu tới cuối bản báo cáo dài 20 trang, không có chữ nào nhắc tới Đảng. Một thứ dấu đầu lòi đuôi, mục hạ vô nhân, xúc phạm thiên hạ. Quốc Hội CS thực tế là Đảng cử dân bầu. Đảûng cơ cấu trước 96% dân biểu phải là đảng viên. Kỳ bầu cử vừa qua, trong 1000 ứng cử dân biểu, Mặt Trận Tổ Quốc tay chân, bộ hạ của Đảng, đã sàng lọc, loại bỏ chỉ cho 30 ứng cử viên "tự đề cử". Thế mà CS Hà nội lại báo cáo Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra.

Tất cả quyền hành và quyền lực chính trị đều nằm gọn và trọn trong tay ĐCSVN. ĐCSVN giành độc quyền thống trị như quyền hiến định (điều 4), Bộ Chánh trị là cơ quan quyền lực tối cao. Thế mà báo cáo Chánh phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý tổng thể mọi lĩnh vực đời sống xã hội cũng như đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp luật.

ĐCSVN điều khiển hệ thống toà án ở mọi cấp một cách triệt để và trịch thượng bằng cách nắm quyền bổ nhiệm thẩm phán và những cơ cấu liên quan. Các vụ án chánh trị, chánh án chỉ là người tuyên án lịnh đã làm trước của Đảng. Thế mà báo cáo Tư pháp độc lập.

Còn báo chí tính đến năm 2008, cả nước có 700 cơ quan báo chí với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam), 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản. Nhưng tất cả đều là của đảng, vì đảng, do đảng, Đảng là chủ nhiệm, chủ bút duy nhứt. Đảng dùng cơ quan truyền thông để 'tuyên vận' cho Đảng. Đảng và cơ quan của Nhà Nước của Đảng kiểm duyệt, chế tài, trừng phạt nghiệt ngã nếu ai không đi theo con đường của Đảng chỉ đạo mà Bộ Truyền Thông và Thông Tin gọi là "lề phải". Thế mà báo cáo là diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền con người.

Phong trào Hưng ca làm sôi động tinh thần đấu tranh
tại cuộc biểu tình ngày 8.5 trước LHQ Genève

CS luôn viện lẽ cái gọi là "ngoại lệ nhân quyền châu Á" - nghĩa là họ tôn trọng nhân quyền nhưng mỗi nền văn hóa lại có một sắc thái nhân quyền khác nhau. Nói như vậy là trắng trợn chống lại nhân quyền quốc tế rồi, chống lại tuyên ngôn khẳng định Nhân quyền là một giá trị phổ cập, mà chính CS Hà nội đã thò tay, cầm viết ký vào và long trọng cam kết thi hành.
Thế cho nên CS Hà nội bị 'quây' tơi tả - là phải. CS Hà nội bị chỉ trích mạnh mẽ tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Tin hãng thông tấn AFP, 15 thành viên của Hội Đồng Nhân quyền, đa số là các nước Tây phương đã tố giác những vi phạm nhân quyền của chế độ CS Hà nội về chẳng hạn như giới hạn tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, bạo lực chống các cộng động thiểu số hay là giam giữ tùy tiện. Hoa Kỳ, nơi phân nửa người Việt tỵ nạn CS định cư, làm mạnh nhứt, kêu gọi Việt Nam trả tự do tất cả tù nhân chính trị như linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê thị Công Nhân.

Các tổ chức phi chánh phủ cũng chống CS Hà nội quyết liệt. Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tố giác Hà Nội có ý đồ "lũng đoạn" qua việc CS Hà nội móc nối một số nước độc tài CS như Trung Cộng, Cuba, Lào binh vực CS Hà nội. Human Rights Watch lên án các vụ tra tấn tù nhân tôn giáo và chính trị. Ân Xá Quốc Tế thì đòi hỏi Hà nội hủy bỏ hoặc sửa đổi luật hình sự 1999 để các điều khoản mập mờ liên quan đến an ninh quốc gia không được sử dụng một cách tùy tiện nhằm trấn áp đối kháng và tự do phát biểu.
Còn bên ngoài trụ sở của Hội Đồng Nhân Quyền thì người Việt khắp nơi trên thế giới về biểu tình chống CS Hà nội. Nổi bật nhứt là có cả 400 người Việt gốc Miên gốc ở Miền Nam VN biểu tình phản đối CS Hà nội kỳ thị chủng tộc.

Nhưng CS Hà nội vốn rất cố lì, đâu có coi ra gì, hết phiên họp ai về nước nấy, CS Hà nội đâu sẽ vào đấy, chẳng sửa đổi gì. Cái kiểu CS Hà nội đối với quốc tế là thế. Công ước nào cũng ký, nghĩa vụ nào cũng cam kết. Nhưng cái nào lợi cho CS thì họ làm. Không lợi thì CS coi hiệp ước, công ước như giẻ rách. Ai có phê bình thì CS cãi chày cãi cối. Đối với pháp luật của chế độ cũng vậy. CS ghi đủ thứ quyền công dân, đưa ra đủ thứ chương trình lời hay ý đẹp, mà CS không làm hay làm theo luật rừng. Cái kiểu đó có khi cũng gạt được một số học gỉa, chánh trị gia salon, những ngưòi bằng cao nhưng kinh nghiệm CS ít ở Tây Phương. Nhưng người dân Việt thì quá rành CS, như TT Thiệu đã từng nói một câu để đời, đừng tin những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm.

VI ANH

Không có nhận xét nào: